Rất hiếm khi nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn đóng bộ complet, cravate. Làm sao chờ ngắm Âu phục ở một cây bút hàng đầu chuyên viết về nông nghiệp nông thôn của làng văn Việt Nam. Sau vẻ ngoài tưởng xuề xòa ấy là trái tim đôn hậu, một tâm hồn sâu sắc, niềm say mê văn chương không vơi cạn, bất chấp mọi khổ nhọc, thiệt thòi trong sáng tác và dìu dắt những thế hệ kế cận cho quê hương Phú Thọ nói riêng và lực lượng trẻ cho Hội Nhà văn Việt Nam. Chính vì tâm huyết này mà Chủ tịch lâu năm của Hội Nhà văn Việt Nam quý trọng và tin tưởng ông. Nhà thơ Hữu Thỉnh có mặt tại Hội Liên hiệp VHNT Phú Thọ chiều 27-12-2017, dự cuộc ra mắt sách Quê hương và bầu bạn (660 trang), tập truyện ngắn, bút ký, khảo cứu văn hóa, tâm sự nghề chân dung bạn bè và khoảng 200 trang đồng nghiệp viết về ông. Hôm ấy, ông khác hẳn ngày thường trong bộ complet màu ghi. Ông là một cá tính quyết liệt, được mọi tầng lớp văn nghệ sĩ ở Phú Thọ quý trọng, coi như một vị tiên chỉ đất này.



Nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn và những trang văn rướm máu

NGUYỄN HƯNG HẢI

Nguyễn Hữu Nhàn là niềm tự hào, không chỉ với riêng vùng đất Tổ. Ông trở thành cánh chim đầu đàn, con "đại bàng" của vùng Kinh đô Văn Lang xưa và là tính cách, nhân vật điển hình của lòng yêu quê hương, đất nước đến cực đoan, mà tôi linh cảm rồi đây, có thể, ông trở thành nguyên mẫu của một cuốn tiểu thuyết để đời nào đó. Biết đâu, chính ông sẽ tự truyện như nhà văn Sao Mai (bạn vong niên của ông) từng viết.
Nguyễn Hữu Nhàn là nhà văn của nông thôn, nông dân và là một nhà văn hóa. Cõi văn của ông thấm đẫm hồn quê nước Việt. Đời ông đầy níu kéo, giằng co, lắm sảng khoái thăng hoa, nước mắt. Yêu quê hương, đất nước đến độ bị "dị ứng" vì những phát biểu thẳng như đường kẻ chỉ và chuẩn như là đường "rọi mực". Quý lớp trẻ đến độ quên mình, đã 2 lần trượt Giải thưởng Nhà nước, chỉ vì cả tin, những vương vít, "lọc lõi" khôn ngoan mà vẫn "hở sườn" bởi đời còn nhiều đố kỵ và những cú ra đòn từ đâu đó, có thể là ở ngay bên cạnh ông mà ông không biết, hoặc có biết, nhưng không có cách nào trốn chạy được. 
80 tuổi, 16 tập truyện ngắn và tiểu thuyết, 9 công trình nghiên cứu văn hóa (cả chung và riêng); 8 kịch bản và tác phẩm văn học đã được chuyển thể thành kịch bản phim, hàng trăm ghi chép, bài báo. Ở vùng này, người ta vì quen "ăn lộc tổ tiên", nên ngay trong giới văn nghệ sĩ, cũng có ít người nghĩ ngợi được như ông. Cả nghĩ, nên ông cũng cả lo cho cái móng nền của "tòa lâu đài" Văn nghệ Phú Thọ, tọa lạc ở 160, đường Lê Quý Đôn, phường Gia Cẩm, TP. Việt Trì. Ở đó, nếu một ngày vắng ông, không biết không khí ở cái Hội Văn nghệ này sẽ ra sao.
Tôi quý trọng ông ở sức nghĩ, sức làm việc, ở những đóng góp lớn cho miền đất Tổ ở cả 2 lĩnh vực văn hóa và kiến tạo các chân giá trị mới. Là nhà văn trưởng thành trong kháng chiến (dù không đi bộ đội), ông thực sự là chỗ dựa tin cậy cho thế hệ nhà văn như lớp chúng tôi, cả trong nghề, khơi thông mọi luồng lạch để đưa "con thuyền" văn chương của từng người cập bến, đi đúng dòng chủ lưu của văn học đương đại. Ông dặn tôi, đi tìm hồn chữ, đừng tìm xác chữ, đừng "chộ chữ". Tự trọng và cẩn thận trên từng trang văn. Khiêm nhường và "dị ứng" với lời khen. Hai phẩm chất này đã tạo nên một tư cách, một tâm thế, một giá trị đích thực của văn học cách mạng trong con người cách mạng Nguyễn Hữu Nhàn.
Chiều sâu của những tầm kích do ông xác lập nên là ở sự khắc họa thành công gương mặt thời ông sống: gương mặt của thời đại mà người nông dân là nhân vật trung tâm, ở đó vừa là tột đỉnh vinh quang vừa là đáy cùng của xã hội. Viết về nông dân, viết về nông nghiệp, nông thôn với chủ đích xoáy sâu vào các vỉa tầng văn hóa và đưa tới cho người đọc nhận thức mới, giá trị mới về văn hóa, theo tôi là một thách thức. Nguyễn Hữu Nhàn đã vượt qua nhiều rào, cản "cái bóng" để trở thành một trong những gương mặt nhà văn tiêu biểu của đất nước ở mảng đề tài tưởng dễ mà vô cùng khó viết này. Nói như nhà thơ Hữu Thỉnh thì ở Vĩnh Phú trước đây, Phú Thọ hiện nay: "Ngô Ngọc Bội và Nguyễn Hữu Nhàn là cặp bài trùng, cùng quê, cùng thế hệ, cùng đề tài. Nhưng họ hoàn toàn khác nhau. Ngô Ngọc Bội gắn với chiều dọc theo lịch sử, còn Nguyễn Hữu Nhàn gắn với chiều ngang là văn hóa".
Nhận định của nhà nghiên cứu, phê bình văn học - PGS.TS Ngô Văn Giá thật chí lý: "Nguyễn Hữu Nhàn không đi vào những vấn đề tố khổ, hoặc phê phán chống tiêu cực, hoặc làm ăn chuyển đổi kinh tế… mà bằng một cách thật tự nhiên, nhất quán, ông chuyên chú đi vào các tầng vỉa văn hóa của làng quê thời hiện đại. Thứ nhất, ông phô diễn một cách thích thú các phong tục của các tộc người, hoặc của không gian địa văn hóa bằng vốn kiến thức dân tộc học, văn hóa học khá phong phú. Thứ hai, tôn vinh giá trị tâm hồn và văn hóa đích thực của làng quê và người quê. Thứ ba, thể hiện sự tha hóa của văn hóa làng quê trước sự xâm lăng của đô thị, kinh tế thị trường… Văn hóa truyền thống đã và đang bị giải thiêng, thì đóng góp này của nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn là vô giá. Bởi tiếng chuông báo động rung lên từ những trang văn ông viết đã cảnh tỉnh và thức tỉnh cho không ít sự mê ngủ, cả vô tâm và vô cảm ở đâu đó hôm nay, ngay trên mảnh đất cội nguồn đầy tâm linh và huyền thoại này…".
Sự nghĩ ngợi của nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn và lo âu của ông về tình trạng suy thoái nghiêm trọng của tâm tính con người, rộng ra là của văn hóa làng quê khiến chúng ta day dứt và phẫn nộ trước "…Đám người giàu xổi vì may mắn và những anh vơ được tiền chùa dễ như vơ cỏ rác. Họ giàu nhanh đến chóng mặt. Tiền của về nhanh đến mức chà đạp, đẩy lùi văn hóa tụt về phía sau. Thế là đạo lý cương thường bị đảo lộn. Truyền thống bị tiêu diệt. Sự lố lăng, láo nháo thay thế cho diện mạo bình dị thanh bình ở mọi ngóc ngách của quê hương. Cái họa chung đang từ đấy mà ra…". Đó là tâm trạng của nhân vật Tèo - Vĩ Đại. Cũng là chủ đề trong khá nhiều truyện ngắn của ông: "Đám cưới ở làng", "Làng quê yên ả", "Làng Phần"… Mặc dù lên án băng hoại, xấu xa, nhưng khi thể hiện sự tha hóa văn hóa của làng quê, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn vẫn mang đến cho người đọc những tia sáng của hy vọng. Đó là những cái kết có hậu, đầy nhân bản. Đời vốn không đơn giản thế, song cái kết có hậu của những câu chuyện dân gian đã ngấm vào ông, muốn khác đi cũng khó lắm thay!? 
Nông thôn, nông dân chỉ là cái cớ  để nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn viết về linh hồn dân tộc, bởi văn ông, đúng như một nhà văn phương Tây nói "Thành thị có thể xác, thôn đã có linh hồn".  Không gian trong tác phẩm của Nguyễn Hữu Nhàn là những làng quê Phú Thọ thấm đẫm văn hóa cội nguồn. Người nông dân được ông tôn vinh. Văn hóa làng được ông soi chiếu và thắp sáng. Nhờ những trang văn chan chứa tình người, tình quê của ông mà người đọc hiểu rõ: "Văn hóa là một đại lượng không có gì hoàn toàn hay hoặc hoàn toàn dở, hoàn toàn tốt hoặc hoàn toàn xấu, hãy nhìn nó một cách chân thực nhất để mà tìm cách hoàn thiện chính mình". (Văn Giá). Đây chính là thông điệp Nguyễn Hữu Nhàn gửi đến độc giả trong hầu hết các tác phẩm đều mang đến cho người đọc cảm xúc mới lạ, bất ngờ, bâng khuâng và day dứt. Ông quan niệm: dù là  thể loại nào, cũng phải có tính dự báo, tác phẩm mới có giá trị. Ông điêu luyện trong nghệ thuật điển hình hóa nhân vật và đối thoại, chú ý đến xây dựng chi tiết điển hình và khắc họa tính cách nhân vật nhằm làm nổi bật nội dung tư tưởng. Ông chỉ viết khi nào có tâm sự muốn giãi bày. Với ông, để viết được về nông dân, nông thôn, nông nghiệp không thể không sống cuộc đời thật như người nông dân, không thể không hiểu văn hóa làng.
Sinh ra ở vùng quê Tứ Xã (huyện Lâm Thao - vựa lúa của tỉnh Phú Thọ), nơi còn lưu giữ nhiều dấu tích văn hóa cổ, trong đó có lễ hội phồn thực Trò Trám, nên trong ông thấm đẫm văn hóa cội nguồn. Say mê tìm hiểu văn hóa dân gian từ thời trẻ, chịu đi chịu đọc, chịu học hỏi, nên ông là kho tư liệu sống về văn hóa dân gian vùng đất Tổ. Sáng tác nào của ông cũng lấp lánh vẻ đẹp nhân cách của văn hóa làng. Ông là nhà văn nổi tiếng, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian có nhiều đóng góp ở Phú Thọ. Ông là kho tư liệu về phong tục tập quán, lễ hội và những câu chuyện dân gian vùng đất Tổ, đặc biệt là văn hóa người Mường, người Dao… Ông hiểu về văn hóa các dân tộc như hiểu tâm tính của những người thân trong gia đình vậy.
Có lời đồn, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn biết chài, nèm. Chẳng biết thực hư thế nào, nhưng tôi thấy ông rất tài trong "dẫn dụ" chinh phục và thuyết phục, dù rằng tính ông rất bộc trực, ngay thẳng và đôi khi rất dữ dội trong bày tỏ chính kiến. Ông thường nói: Đã là nhà văn, phải nói chuyện bằng tác phẩm. Không có tác phẩm, ai gọi là nhà văn?! Đối thoại trong truyện, tiểu thuyết của Nguyễn Hữu Nhàn thường ngắn, mang đầy thổ ngữ, đúng với cách nói của nông dân lại rất sâu cay.Lối dẫn chuyện của ông ảo diệu như Trò Trám quê ông vậy. Có lúc bất ngờ, đẩy lên thành cao trào, rất hồi hộp và mê dụ như tục ngủ thăm. Đôi khi lại trầm lắng, da diết.
Có ý kiến cho rằng, tính triết luận trong văn ông chưa cao, những vấn đề đặt ra chỉ như là những lát cắt ngang của văn hóa, chưa mang tính khái quát về thời thế và nhân thế. Tôi lại nghĩ khác, từ trong văn ông, tôi thấy cả một thời kỳ dài của lịch sử những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, nông dân, nông nghiệp và nông thôn Việt Nam hiện lên trong văn ông như một bộ phim quay chậm, đủ các sắc độ, gam màu với rất nhiều thân phận và một tiếng thở dài… Tiếng thở dài của văn hóa làng bị băng hoại, xuống cấp. Và ở góc độ này, ông đã thể hiện được vai trò của một người thư ký thời đại. Bây giờ, đọc lại những: "Chuyện làng Gành", "Làng Cói Hạ", "Phố làng", "Chớm nắng", "Dốc nắng", "Người quê", "Gió thổi qua rừng", "Ràn rạt rừng cười", "Tết ở bản Dèo", "Vui như hội"… của ông, ta thấy hiện lên một thời lịch sử ở làng quê Bắc Bộ, với đầy đủ các góc cạnh va đập của thời thế và nhân thế nơi bờ tre, bóng mít, người nông dân luôn bị yếm thế.
Trong con người tiểu thuyết Nguyễn Hữu Nhàn có ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa truyền thống, đạo đức và tín ngưỡng Á - Đông. Là nhà văn "Cố thủ trong pháo đài làng xã", cày xới miền đồi, uống no đời thôn dã, ông trở thành một người "giàu có" nhất trong làng văn đất Tổ trên cánh đồng văn hóa. Ông có công lớn trong việc giới thiệu với đồng bào cả nước về bản sắc văn hóa vùng đất cội nguồn dân tộc qua từng tác phẩm văn học, các công trình nghiên cứu văn hóa dân gian, kịch bản văn học phim truyền hình, báo chí. Các công trình nghiên cứu về văn hóa dân gian của nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn giúp ích cho Phú Thọ nhiều trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Đặc biệt là việc giới thiệu, bênh vực cho ông Đặng Văn Đăng và "trường phái" thơ Bút Tre, ngay từ khi nó chưa nổi lên dư luận và tranh luận. Không chỉ tinh tường, sắc bén trong sáng tác, ông còn là bậc lão luyện biên tập, không chỉ với văn xuôi. Ông có công lớn trong việc phát hiện và bồi dưỡng, giúp đỡ nhiều cây bút ở Phú Thọ trưởng thành, một số đã trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Bao trùm lên tất cả vẫn là một Nguyễn Hữu Nhàn của những mê đắm, cả đời đi theo cái Đẹp, sống và viết vì cái Đẹp. Vì cái đẹp mà ông sẵn sàng trả giá,  luôn riết róng và bền bỉ đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, cái giả dối. Vì thế, ông vừa là quan tòa, vừa là nạn nhân. Trong cảm nhận của tôi, về một thời mà nhiều khi "Cái còn lại bị đánh đau/ Cái bỏ đi được bắc cầu cho lên"?! Cảm thông và chia sẻ cùng ông, chỉ mong sao, cả đời cầm bút, cống hiến, ông sẽ được đền đáp xứng đáng. Đừng hiểu lầm ông, rằng con người rất phóng khoáng coi trọng những giá trị đích thực này, lại có lúc lẩn thẩn phải đặt lên bàn cân tính toán, giơ lưng che mưa cho một cái barie, một cây hoa nhựa… Dù ở thái cực nào, thích hay không thích ông, thì Nguyễn Hữu Nhàn vẫn là một giá trị đích thực của văn chương nước Việt. Ai đó thích văn ông, lại ghét tác giả làm ra nó, chẳng lạ. Nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn có lạ chăng, là ở cái sự "Tay run mà chữ khỏe", "Tâm Phật khẩu xà" khi phát ngôn, sẽ làm cho đâu đó giật mình?! Như cuộc đời, văn ông không chỉ thấp thoáng tiếng cười mang phong vị cổ truyền mà còn rướm máu tình yêu thương con người, một nỗi đau trước sự băng hoại của văn hóa làng, của truyền thống tốt đẹp bị giải thiêng, trăn trở khôn nguôi trước va đập của thời thế và nhân thế đã, đang làm đảo lộn không ít giá trị về đạo đức và lối sống, trong đó người nông dân bao giờ và lúc nào cũng bị hứng chịu nhiều nhất.


Nguồn: An Ninh Thế Giới