Đọc thơ Trần Lê Khánh, đôi khi phải đọc thật chậm và thật kỹ, thì may ra không để sót những câu thơ hay được cài đặt ở mỗi bài. Ở bài “Gần tới chân trời”, sau những câu khô khan là một câu run rẩy: “Mưa ướt thành phố bạc/ Ướt những chiếc lá và lòng cây/ Hình như, ướt luôn bộ rễ gầy/ Đau lòng hơn/ Ướt cả hạt nắng em phơi khô từ tiền kiếp”. Hoặc bài “Thôi” có bốn câu nắc nỏm: “Trời đỏ/ Đêm nhạt dần/ Linh hồn mỏi/ Trên những vết son”. Chỉ cần hai câu thơ “ướt cả hạt nắng em phơi khô từ tiền kiếp” và “linh hồn mỏi trên những vết so” đã hiển lộ đầy đủ một phẩm chất thi sĩ! Thơ Trần Lê Khánh có ưu điểm về sự liên tưởng và sự khái quát. Do đó, hình như trong tiềm thức của tác giả đã khước từ sự diễn giải.



LINH HỒN MỎI TRÊN NHỮNG VẾT SON

LÊ THIẾU NHƠN

Sau tập thơ “Lục bát múa”, tác giả Trần Lê Khánh lại tiếp tục ra mắt bạn đọc tập thơ “Dòng sông không vội” do NXB Hội nhà văn ấn hành. Hai tập thơ in nối nhau trong vòng một năm, tập nào cũng có độ dày trên 200 trang, chứng tỏ tác giả Trần Lê Khánh có sẵn một trữ lượng thi ca dồi dào được ấp ủ suốt một thời gian dài.
Nếu tập thơ “Lụa bát múa” chỉ thuần thể loại câu sáu chữ bắt cặp câu tám chữ, thì tập thơ “Dòng sông không vội” đa dạng hơn. Tập thơ “Dòng sông không vội” chia thành các phần “Hư vô”, “Ngày về của mây”, “Câu gió’, “Trái tim kiến cắn”, “Tuyệt đối”, “Nước mắt về biển”, “Vầng trăng hoá thạch”, “Mùa xuân mềm” như tỏ bày những mạch nguồn sáng tạo riêng của tác giả.
Tập thơ “Dòng sông không vội” không hề thong dong nhàn nhã như tên gọi. Ngôn từ gấp gáp và ý tưởng cũng gấp gáp. Không khó hình dung, nhiều bài thơ được Trần Lê Khánh buông rơi vần điệu xuống bản thảo rất nhanh, như sợ không kịp với những suy tư sốt ruột của mình. Ngay cả thể loại lục bát trong tập thơ “Dòng sông không vội” cũng chuyển nhịp dứt khoát và táo bạo, ví dụ bài “Mưa cũ” thánh thót những tiếng gõ lên kỷ niệm: “Mưa làm gió ướt tả tơi/ Chưa đem vắt mà lại phơi làm gì/ Cành nặng vì lá ra đi/ Lòng nặng vì ném tình si vội vàng/ Khác gì giặt sạch hồng nhan/ Có ai khiến được hoa tàn phút giây/ Mây nặng vắt gió lên cây/ Vài hạt mưa cũ lung lay thì buồn” hoặc bài “Ngày về của mây” bồng bềnh theo nhung nhớ mù khơi: “Hàng cây từ thuở đứng im/ Em về phố cũ rêu tìm cánh bay/ Gió ru chiếc lá trên tay/ Bỏ rơi giọt nắng cay cay mắt buồn”.
Trần Lê Khánh là một chuyên gia đầu tư tài chính. Những thương vụ mua bán và sáp nhập đã chiếm của anh rất nhiều tâm trí. Anh không có ý định dấn thân vào giới sáng tạo văn chương. Thế nhưng, thi ca bỗng dưng đeo bám anh, vừa lấy đi của anh chút sức lực vừa cho anh cơ hội trút bỏ những căng thẳng ngày thường. Vì vậy, thơ Trần Lê Khánh luôn vụt ra những lóe sáng vẫn được giấu kín giữa ngổn ngang: “Ngày em về/ Con đường mòn thức dậy/ Dãy núi úp mặt vào bật khóc/ Bên kia hư vô”. Những câu thơ ngỡ chừng không liên quan gì mật thiết, lại đặt cạnh nhau mà thành một nỗi xao xác!
Thơ Trần Lê Khánh trong tập thơ “Dòng sông không vội” là kiểu thơ lý tính. Cảm xúc dẫu chênh chao thế nào vẫn được điều chỉnh bằng óc sáng tạo. Câu mông lung và câu hờ hững chỉ tạo đà cho câu phát hiện: “Rừng xưa giấu bớt cây/ Sóng khua cơn gió đuổi/ Đêm mùa đông không tuổi/ Dấu lửa chờ bên thông”. Chính câu thơ thứ tư đã kéo cả ba câu trước vào một niềm riêng xao xuyến!
Trần Lê Khánh không chỉ dùng cách tương tác giữa các dữ kiện để gửi gắm ý niệm băn khoăn, như bài “Vệ thần” xâu chuỗi những câu ngắn gọn: “Căn phòng/ Bình hoa/ Mùi đêm/ Ngây dại/ Hoa hồng vàng đã lành vết sẹo/ Trên những chiếc gai”, mà anh còn khéo léo sắp xếp những thi ảnh đã có tứ thơ, như bài “Bẫy trăng” nhiều giăng mắc: “Đêm đó/ Em rủ anh đi bẫy trăng/ Bằng vũng nước con con đầu ngõ/ Anh cười/ Rằng trăng chỉ thích biển hồ sông suối/ Thích dạ khúc buông trô/ Ngọn đèn buồn rượi/ Đêm đêm giả vờ đứng im/ Giăng bầy thiêu thân bay về nhìn/ Rơi vào vũng nước/ Bẫy em”. Từ bẫy trăng đến bẫy em là một sự hoán đổi thú vị!
Trong thể thơ tự do, Trần Lê Khánh có kỹ năng ngắt câu khá hợp lý. Có những chữ chỉ nằm một mình nhưng đóng vai trò quyết định cho toàn bộ thẩm mỹ bài thơ. Chẳng hạn, bài thơ “Nàng” đặt trọng điểm vào chữ cuối cùng: “Em đi ngang/ Thu đỏ dần/ Gió chảy dưới dòng sông/ Con cá nằm mơ đeo chiếc lục lạc hồng/ Ngân”. Hình ảnh “gió chảy dưới dòng sông” tương đối ấn tượng, nhưng chữ “ngân” mới phản ánh được sự lan tỏa của cái đẹp!
Đọc thơ Trần Lê Khánh, đôi khi phải đọc thật chậm và thật kỹ, thì may ra không để sót những câu thơ hay được cài đặt ở mỗi bài. Ở bài “Gần tới chân trời”, sau những câu khô khan là một câu run rẩy: “Mưa ướt thành phố bạc/ Ướt những chiếc lá và lòng cây/ Hình như, ướt luôn bộ rễ gầy/ Đau lòng hơn/ Ướt cả hạt nắng em phơi khô từ tiền kiếp”. Hoặc bài “Thôi” có bốn câu nắc nỏm: “Trời đỏ/ Đêm nhạt dần/ Linh hồn mỏi/ Trên những vết son”. Chỉ cần hai câu thơ “ướt cả hạt nắng em phơi khô từ tiền kiếp” và “linh hồn mỏi trên những vết so” đã hiển lộ đầy đủ một phẩm chất thi sĩ!
Thơ Trần Lê Khánh có ưu điểm về sự liên tưởng và sự khái quát. Do đó, hình như trong tiềm thức của tác giả đã khước từ sự diễn giải. Những bài thơ dài, với khoảng vài chục câu, thì Trần Lê Khánh viết hơi tản mát. Thậm chí có lúc ý tứ chuồi ra ngoài bài thơ. Đơn cử, bài “Mùa đông mỏng” nếu cắt gọt bớt những chỗ lan man thì có được mấy câu đáng thảng thốt: “Mùa đông như giải lụa/ Về trên thành phố rồi…/ Bên đường nhặt chiếc lá/ Chợt thấy mỏng bàn tay”.
Nói đến tài thơ thì phải nói đến năng lực dùng chữ. Nếu dùng những chữ sáo mòn thì ngôn ngữ chỉ còn giá trị âm thanh, mà không thể gánh vác được hai sứ mệnh thăng hoa của thi ca là sự nhận thức và sự tưởng tượng. Tính từ và động từ có rung vang cỡ nào cũng không bằng hình dung từ đặt đúng vị trí. Trần Lê Khánh dùng chữ “nuốt ực” để giúp bài thơ “Dòng sông không vội” còn lại dư vị: “Cánh hạc/ Chia đôi cánh đồng/ Bờ đông hoa rực/ Nuốt ực giọt phù sa”. Và Trần Lê Khánh dùng chữ “hầm hập” để giữ bài thơ “Khói” lung linh không gian huyền ảo: “Sân đình chật người/ Khói nghi ngút bao la/ Khuôn mặt hoa hầm hập đỏ/ Em cởi hư không/ Lau nhẹ  giọt mồ hôi/ Cho con kỳ lân đá”.