Làm nông nghiệp kỹ thuật cao, Lê Xuân Đố cũng tham dự lớp tập huấn rất đàng hoàng. Riêng môn vắt sữa bò thì Lê Xuân Đố tuyên bố với giáo viên: "Tôi không cần học. Tôi có năng khiếu vắt sữa, bốn vú hay hai vú thì tôi đều bóp ra sữa ngon lành!". Trang trại mênh mông, cỏ xanh mơn mởn, đàn bò tung tăng. Sáng sáng chiều chiều Lê Xuân Đố đủng đỉnh vừa đi vừa ngắm, điệu bộ như Hồ Giáo mà oai phong vượt trội Hồ Giáo. Đến ngày thu hoạch, Lê Xuân Đố trổ tài vắt sữa khá điệu nghệ. Bóp vú đằng trước thì Lê Xuân Đố đọc thơ Hồ Xuân Hương, mà bóp vú đằng sau thì Lê Xuân Đố đọc thơ Đoàn Thị Điểm. Có thể nhờ chất thơ kích hoạt, sữa bò nhiều khủng khiếp. Lê Xuân Đố nhẩm tính, chỉ cần vắt sữa một năm sẽ đủ tài trợ cho tất cả hội viên Hội nhà văn đi du lịch châu Âu ngắm Paris thật sự, chứ không phải ở Sài Gòn bì bõm lội nước lụt mà mơ tưởng sóng sông Seine!
Với một nghệ sỹ, lao động miệt mài chưa đủ, số lượng tác phẩm chưa nói lên được gì nhiều. Những gì Thu Bồn viết ra và sự tác động của chúng đối với người đọc mới là điều căn cốt. Giữa những ngày gian khổ của cuộc chiến đấu ở miền Nam, trong rừng sâu, Thu Bồn viết: Lòng tôi hướng về quê hương Cách Mạng/ lòng tôi mơ về Việt Bắc thân yêu (Trèo dãy Ngọc Linh ). Còn nhớ đầu những năm sáu mươi của thế kỷ XX, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ Diệm đang mịt mù, đen tối, Bài ca Chim Chơrao vượt tuyến ra bắc, sắt son và thiêng liêng như một lời thề, bất khuất như một bóng cây Kơnia, rắn rỏi và thơm thảo như tấm lòng của đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Nguyên đối với Cách mạng. Ngay sau đó Bài ca Chim Chơrao được đưa vào chương trình học văn của các cấp. Bao nhiêu chàng trai, cô gái sau đó hăng hái lên đường ra mặt trận mang theo trong trí nhớ hình ảnh của Hùng và Y Rin với lòng quyết tâm sôi sục đánh thắng giặc Mỹ xâm lược
Gần đây, có một cây bút thơ viết “Bỗng thành triệu phú ngẩn ngơ”, liền được một nhà thơ bình rằng là một trong số định nghĩa thi sĩ hay nhất. Thôi thì có thể bột phát thành thơ, và cũng có thể cao hứng tán dương nhau, nhưng đã đem in lên sách báo thì phải chịu sự bình giá của dư luận. Vậy có phải thật nhà thơ là triệu phú ngẩn ngơ? Không biết tất cả các nhà thơ và những người yêu thơ có đồng tình với định nghĩa này? Cứ theo câu chữ thì cả người viết lẫn người bình đều khoái trí với từ ngẩn ngơ này lắm. Vậy chẳng lẽ thi sĩ là những người ngẩn ngơ? Cứ theo quan niệm của dân gian thì ngẩn ngơ là để chỉ những người thần kinh không bình thường. Còn theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Trung tâm từ điển học và Nhà xuất bản Đà Nẵng in năm 2002 thì Ngẩn ngơ: ở trạng thái như không còn chú ý gì đến xung quanh, vì tâm trí đang để ở đâu đâu...
25 bài trong tập sách hầu như đều được tác giả viết trong khoảng 4-5 năm trở lại đây. Nhưng đó là sản phẩm của mấy chục năm nghiền ngẫm, tìm hiểu, chắt lọc. Trong đó, có những bài được tác giả phôi thai từ đề tài khoá luận và luận văn khi còn là sinh viên đại học. Hồi ấy, có chàng trai tuổi 18 tạm biệt xứ Đoài đến với rừng núi Đại Từ, Thái Nguyên, nhập môn khoa Văn, Đại học Tổng hợp sơ tán. Vận chiếc áo sơ mi xanh si lâm, đầu mang mũ nhựa cứng màu đu đủ non, lưng giắt dao quắm, leo dốc Dài của núi Tràng Dương vào rừng chặt nứa, đốn gỗ về dựng lớp, làm nhà. Chàng trai dường như chẳng biết gì là gian khó. Đầu toàn chuyện văn chương. Rồi năm học cuối cùng ở Đại học. Giữa tiếng máy bay và bom nổ lúc xa, lúc gần, chàng mải miết như quên ngủ quên ăn trong mấy tuần lễ liền viết một hơi luận văn tốt nghiệp. Luận văn được đánh giá xuất sắc. Dường như cái “nghiệp” văn chương đã nhập vào Khuất Bình Nguyên đến độ không thể dứt ra được...
Đọc thơ Trần Lê Khánh, đôi khi phải đọc thật chậm và thật kỹ, thì may ra không để sót những câu thơ hay được cài đặt ở mỗi bài. Ở bài “Gần tới chân trời”, sau những câu khô khan là một câu run rẩy: “ Mưa ướt thành phố bạc/ Ướt những chiếc lá và lòng cây/ Hình như, ướt luôn bộ rễ gầy/ Đau lòng hơn/ Ướt cả hạt nắng em phơi khô từ tiền kiếp”. Hoặc bài “Thôi” có bốn câu nắc nỏm: “ Trời đỏ/ Đêm nhạt dần/ Linh hồn mỏi/ Trên những vết son ”. Chỉ cần hai câu thơ “ướt cả hạt nắng em phơi khô từ tiền kiếp” và “linh hồn mỏi trên những vết so” đã hiển lộ đầy đủ một phẩm chất thi sĩ! Thơ Trần Lê Khánh có ưu điểm về sự liên tưởng và sự khái quát. Do đó, hình như trong tiềm thức của tác giả đã khước từ sự diễn giải.
“Cuộc sống bộn bề hôm nay không còn nhiều chỗ cho thơ nữa. Nhưng những lúc rơi vào bế tắc hay trong những nỗi đau, em vẫn viết, cô ạ. Và em vẫn theo dõi những vần thơ của cô trên facebook, vẫn luôn yêu thơ cô, vẫn dành những mến mà cả sự đồng cảm, như ngày xưa cô đã đồng cảm với em”. Đặng Tố Anh đã viết cho tôi như vậy. Em là học sinh lớp tôi dạy văn. Em là thành viên CLB thơ trường Trần Phú – Hà Nội năm ấy. Và bây giờ em đang giảng viên trường Đại học Kiến trúc. Nhớ học trò, nhớ cái câu lạc bộ thơ bé nhỏ , cái câu lạc bộ duy nhất được lập nên từ sự động viên của Ban giám hiệu nhà trường năm ấy – tôi đi tìm các em. Cho cô vẫn được gọi như ngày xưa ấy nhé, dù bây giờ học trò đều đã phương trưởng, thành đạt.
Thời bao cấp, nghĩ lại, vất vả mà vui. Đến khi kinh tế khá hơn chút, anh đã tháo vát đổi được nhà từ trong ngõ ra ngoài phố nhỏ. Đời sống vẫn thiếu thốn, vẫn ăn dè hạt tiện, để nuôi hai con ăn học. Thấy con mình có năng khiếu nghệ thuât, anh chị thuê thày kèm cháu gái học hát, cháu trai học đàn ghi-ta. Tới khi hai con anh được về học ở Nhạc viện Hà Nội, niềm vui lớn vậy, mà chẳng kéo dài được bao. Cháu Khương, con trai đầu, học xuất sắc, từ hệ sơ cấp, lên hệ trung cấp, bộ môn ghi-ta. Cháu Vân, con gái, học khoa thanh nhạc. Đúng lúc cháu Khương đủ điểm đi học nước ngoài, thì tai nạn thảm khốc ập đến. Cái tai nạn kinh hoàng, như định mệnh.. Mà đúng là định mệnh. Ngày cháu về chào bố mẹ để chuẩn bị đi học xa, cháu có đến thăm người bạn. Ngồi trong nhà bạn, chiếc ô tô mất phanh từ ngoài phố đâm thẳng vào nhà. Đám tang kinh hoàng, đầy hoa trắng. Những vạt áo học trò trong trắng dằng dặc tiễn cháu Khương. Chúng tôi ôm vai anh, không dám nói một lời nào. Sau cái chết tức tưởi của con
Thật là đẹp đẽ và cảm động mà cũng thật là kỳ lạ: những nhà thơ bộ đội Việt Nam và những nhà thơ vốn là lính chiến Hoa Kỳ, giờ đây bên nhau mạn đàm về văn học của hai đất nước, đọc cho nhau nghe và bàn luận với nhau về những bài thơ của nhau. Mà không chỉ các nhà văn nhà thơ, trong đông đảo cử tọa dự hội thảo cũng có rất nhiều người từng là lính ở chiến trường Việt Nam. Họ từ nhiều nơi của bang Montana đã vượt đường xa về Missoula nghe mạn đàm chuyện thơ văn Việt - Mỹ, và cũng là để gặp gỡ "những người Việt Cộng", đối thủ của mình ngày xưa. Cảnh sát trưởng Missoula, ông Pete Lawrenson, từ năm 1970 tới 1972 là sĩ quan cố vấn của lực lượng Biệt động quân Sài Gòn đồn trú ở Kon Tum. Khi biết tôi nguyên là lính Sư đoàn 10 bộ binh mà thuở xưa đơn vị của ông đã bao lần đụng độ, Pete Lawrenson mừng như là được gặp lại một người bạn đã nhiều năm xa cách.
Thời gian trở lại đây, ngày càng có nhiều cuộc thi Hoa hậu được tổ chức tại Việt Nam. Có nhiều người nói vui, đây là "Thời của Hoa hậu". Điều đáng nói là các cuộc thi sắc đẹp này luôn vướng phải những ồn ào, từ thí sinh cho tới ban giám khảo, người tổ chức. Có cuộc thi khép lại trong tai tiếng. Có cuộc thi vừa mới bắt đầu scandal đã nổ ra. Đứng trước điều này, phóng viên VTC News đã có cuộc trò chuyện với nhà văn, nhà biên kịch Chu Thơm - nguyên Phó trưởng phòng Nghệ thuật (Cục Nghệ thuật biểu diễn, Bộ VHTTDL). Ông cho rằng: “Việc tổ chức nhiều cuộc thi Hoa hậu hiện nay sẽ khiến nhiều người chạy theo hay tôn vinh những giá trị ảo. Hoa hậu chẳng mang lại gì vinh quang cho Tổ quốc cả…”
Tập đoàn Tuần Châu đặt hàng đạo diễn Việt Tú dàn dựng vở diễn có tên "Thuở ấy xứ Đoài", một vở diễn sân khấu thực cảnh đầu tiên ở Việt Nam, với bối cảnh tự nhiên ở chùa Thầy, Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Nội. Với kỳ vọng vở diễn sẽ có đời sống kéo dài từ 5-10 năm, Tập đoàn Tuần Châu đã mạnh tay đầu tư hàng trăm tỷ và bản thân đạo diễn Việt Tú cũng bộc lộ tham vọng sáng tạo của mình khi miệt mài thuyết phục gần 200 bà con địa phương tham gia trong vai trò diễn viên. Vở diễn ra mắt vào tháng 6-2017, tạo được nhiều ấn tượng tích cực đối với khán giả nhưng rốt cuộc, nó đã không sống được 5-10 năm như mong muốn của nhà đầu tư mà đã bị khai tử, song song với việc Tập đoàn Tuần Châu cắt đứt hợp đồng với Việt Tú. T
Đôi lời của nhà báo Dương Đức Quảng: “Mấy hôm nay, sau khi cụ bà Hoàng Thị Minh Hồ mất, thọ 104 tuổi, nhiều nhà báo và các bạn viết facebook đã có bài về cụ trên báo và trên trang cá nhân bày tỏ sự ngưỡng mộ, tiếc thương và cả sự thông cảm với gia đình cụ xung quanh câu chuyện về ngôi nhà 34 Hoàng Diệu, nơi cụ đã ra đi. Nhà báo Quốc Phong đã có một bài khá hay trên báo Thanh Niên kể nhiều chuyện về hai cụ Trịnh Văn Bô – Hoàng Thị Minh Hồ, trong đó có chuyện về ngôi nhà 34 Hoàng Diệu, Quận Ba Đình, Hà Nội này. Một số nhà báo và bạn viết khác, trong đó có người tôi biết khá rõ cũng viết về ngôi nhà này nhưng có những chi tiết chưa thật đúng, thậm chí cho đây là câu chuyện “thâm cung bí sử” ít người biết, "khi nào đó tôi sẽ viết ra"!. Là một nhà báo có hơn mười năm làm việc tại Văn phòng Chính phủ có điều kiện tiếp cận với các thông tin liên quan đến ngôi nhà 34 Hoàng Diệu, hôm nay tôi đưa lên fb của tôi một đoạn trong cuốn Hồi ký tôi đang viết dở về cuộc đời làm báo của mìn
“Đã gọi là tiểu thuyết thì bản thân thể loại không có chuyện né tránh hiện thực, hay nói đúng hơn, những nhà tiểu thuyết chân chính không được phép né tránh mô tả hiện thực muôn vẻ, kể cả cái ác, vì cái ác bao giờ cũng mạnh mẽ và lẫm liệt, đầy mưu ma, chước quỷ, còn cái thiện thì lại ngu ngơ và ngây thơ, thường rất cả tin... Nhà văn mô tả cái ác để lột mặt nó ra và cũng là để nâng giấc cho những con người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn vào chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác của họ bị hắt hủi và đọa đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Vậy thì nhà văn phải đứng về phía họ, bênh vực họ. Nói thế có vẻ sáo mòn, nhưng mà thật đấy ông ạ. Tôi là tôi ớn nhất những nhà văn máu cá, cứ lấy an toàn làm gốc, chơi trò chơi hiền lành, vô sự, tưởng rằng cả đời không hại ai, không làm điều ác với ai. Nhưng cái tội tày đình là tội khiếp đảm trước cái ác. Rồi thì quen chung sống với nó, coi như là không có nó ở trên đời này vậ
Góc nhìn của dịch giả Đào Minh Hiệp: Cho đến giờ, chưa thấy một công trình nghiên cứu nào lý giải về sự “tụt dốc” đó của văn học Nga đương đại, nhưng theo quan điểm của một người dịch, nguyên nhân là không có đội ngũ nhà văn tài năng trẻ kế thừa. Các nhà văn nổi danh từ thời Xô Viết đến giai đoạn này đều đã cao tuổi, bút lực không còn sung mãn và cũng không theo kịp với những biến động dữ dội ở nước Nga, chỉ còn lại một vài cây bút có đủ khả năng thích nghi với môi trường mới và tiếp tục cho ra mắt những tác phẩm mới như Rasputin và Astaphiev, nhưng cũng không đủ sức làm lay động hội đồng xét giải. Còn các cây bút trẻ, có lẽ họ quan tâm đến việc làm kinh tế nhiều hơn là văn học.