Có những người cách xa đằng đẵng về thời gian, thế hệ, chẳng bao giờ mong dịp gặp gỡ, bởi đơn giản, khi Lê Thiếu Nhơn lớn lên thì bóng hình họ đã xa xôi. Có những người cách trở về không gian mà việc nghề văn, nghề báo chỉ cho nhau gặp trên mặt chữ chứ không có dịp giáp mặt, cầm tay. Nhưng tác giả cuốn “Hoa rơi hữu ý” vượt qua ngăn cách để phát sáng đôi mắt xanh thân mật với những con người mà anh cho là có sứ mệnh đặc biệt trên thế gian. Điều thú vị khi đọc cuốn sách này, là những trang viết cho thấy sự nhập cuộc của tác giả ở tư thế hóa thân vào người đồng hành, người bám theo dấu chân thi nhân đi qua gập ghềnh, sóng gió cuộc đời và phảng phất chút không khí thời cuộc, để từ đó, người đọc phần nào hiểu lý do vút lên của những câu thơ. Nhưng Lê Thiếu Nhơn cũng không đi vào bình bán tỉ mỉ hay luận bàn câu chữ, ngữ nghĩa, nếu làm việc đó, chắc dành cho mỗi tác giả, anh phải làm cả cuốn sách dày. Mà anh viết khái quát tinh thần chung, đặc trưng tinh tế và thú vị của mỗi gương mặt thi
Mấy chục năm đã trôi qua, kể từ ngày chiến tranh chấm dứt... Nghĩ lại, tôi vẫn thầm phục cung cách cánh tham mưu đã chọn vị trí đóng quân cho Bộ Tư Lệnh các Mặt trận. Khỏi phải chê khâu trinh sát, khâu phát hiện của Mỹ. Máy bay đủ loại. Bay tít trên cao, chớp sáng chớp sáng chụp ảnh suốt ngày đêm. Lại còn cây nhiệt đới, cứ thả chơi chơi, cắm một đầu anten xuống đất, chỉ cần nơi nào đông người, nhiệt độ mặt đất tăng lên báo tọa độ, lập tức máy bay à o đ ế n ném bom, bắn phá liền. Lại còn trinh sát mặt đất, ăn vận, trang bị y hệt bên ta, lần mò khắp chốn khắp nơi… Ấy thế mà làm sao chọn được chỗ kín đáo cho cả ngàn con người ẩn náu. Đủ cả các ban bệ: t ham mưu, chính trị, hậu cần. Đủ cả các đơn vị phụ thuộc, bảo vệ vòng trong vòng ngoài. Không gần nguồn nước chịu chết khát sao? Mà gần sông suối lớn địch dễ phát hiện. Xa quá đường xe, đường thồ, lấy đâu gạo mà ăn, xăng dầu mà dùng. Rừng thưa thì dễ lộ mà rúc đầu vào rừng rậm đối phương càng nghi hơn...
Hơn bất cứ một thể loại nào khác, thơ đặc biệt chú ý đến ngôn từ. Nó rất coi trọng tính vi mô. Một chữ trong thơ cực kỳ quan trọng. Vì vậy mà nhà thơ Giả Đảo (779 -843) đời Đường, Trung Quốc, mới có câu "Nhị cú tam niên đắc" (Hai câu thơ, phải làm ba năm, mới vừa ý). Ông Viên Mai (1716- 1790) là nhà thơ và nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình thơ đời Thanh, thì kể lại chuyện "Thạc Văn Vỹ ở đất Thường Châu có câu nói về việc làm thơ vất vả rằng: "Vị cầu nhất tự ổn - Nại đắc bán tiêu hàn" (Vì muốn có một chữ đắc địa/ Đành chịu rét nửa đêm). Viên Mai còn nói: "Làm thơ mà được người ta chữa cho một chữ khác gì lửa đỏ nhỏ giọt tuyết vào, vui không thể tả được"!
Hàng ngàn năm trôi qua con người vẫn nhớ vào một đêm rằm giữa khuya trăng sáng phủ trùng Thái tử Tất Đạt Đa nhìn kinh thành Ca Tỳ La Vệ dưới ánh trăng mơ màng, nhìn mặt vợ con lần cuối cùng. Thái tử đánh thức Sa Nặc người giữ ngựa Kiền Trắc thức dậy. Sau đó cả ba Tất Đạt Đa, Sa Nặc và ngựa Kiền Trắc lặng lẽ ra đi, đi mãi đến bờ sông Anoma. Câu chuyện đến đây nhưng còn chi tiết ít người biết. Mấy năm sau thường lang thang trở lại với sông Anoma nhìn về phía bên kia bờ sông nghĩ ngợi trầm ngâm. Bên kia sông là đồi núi chập trùng rừng xanh thẳm thưa dấu chân người. Nhưng đâu là bến giác bờ mê? Tại sao cùng một chuyến đi ba người, Sa Nặc lại ở lại. Thái tử tìm gì lại đi qua sông. Và cuộc hành trình còn có một bóng dáng nhỏ nhoi bị khuất lấp sau bóng người đi đó là chú ngựa Kiền Trắc. Chú biết gì, tìm gì…?
Chủ đề ca ngợi hòa bình, phản đối chiến tranh của tác phẩm chân thực đến nghiệt ngã này không hợp khẩu vị nhà cầm quyền Đức lúc ấy. Những kẻ bảo thủ giận giữ vì thái độ anh hùng hóa của tác giả đối với những người lính đảo ngũ. Cũng vào thời điểm đó Hitler đang tập hợp lực lượng. Hitler tuyên bố Erich Remarque là người Pháp gốc Do Thái tên là Kramer ( đọc ngược mấy chữ Remarque). Erich Remarque khẳng định: “ Tôi không phải là người Do thái. Tôi là một người lính yêu hòa bình! ”. Ngay những nhà văn thần tượng trong thời trẻ của Erich như Stefan Zweig và Thomas Mann cũng không thích tác phẩm này của Erich Remarque. Thomas Mann còn biểu lộ giận dữ vì sự ồn ào quanh tên tuổi Remarque, vì tính thụ động chính trị của nhà văn. Khi “Phía tây không có gì lạ” được xét tuyển để trao giải Nobel đã có ý kiến cho rằng Erich Remarque ăn cắp bản thảo của một đồng đội chết trận; rằng ông là kẻ phản bội tổ quốc; rằng sự nổi tiếng của ông là rẻ tiền, là ngẫu nhiên, là tình cờ...
Mặt đất đắp cao mộ gió chiến sĩ trận vong trở về? Người nổi chìm cùng ốc xà cừ, rong biển người thả hồn với cua huỳnh đế, cá tà ma người siêu thoát làm hải trình vô định người hóa thân làm hải cảng vô thường… Và trời xanh cũng mộ gió trùng trùng mây vần vũ, những âm hồn trôi dạt
Có thể nói LHP quốc tế Mátscơva là một liên hoan phim quốc tế duyên nợ nhất với điện ảnh VN. Ngay từ LHP lần thư nhất năm 1959, điện ảnh VN đã có mặt với bộ phim truyện đầu tiên của mình – “Chung một giòng sông”. Tiếp theo là những giải thưởng cao quý như: Giải Bạc cho phim “Chị Tư Hậu” của đạo diễn Phạm Kỳ Nam, Giải nữ diễn viên xuất sắc cho Trà Giang trong phim “Vỹ tuyến 17 ngày và đêm” và đỉnh cao là Giải Vàng cho phim “Cánh đồng hoang” của đạo diễn Nguyễn Hồng Sến năm 1981. Một loạt giải thưởng cao khác trong lĩnh vực Tài liệu như “Nước về Bắc Hưng Hải”, “Lũy thép Vĩnh Linh”, “Đầu sóng ngọn gió”, “Những người săn thú trên đỉnh núi Đăk Sao” v.v… Trước đây đoàn điện ảnh VN bao giờ cũng là một trong những đoàn điện ảnh hùng hậu nhất tại LHP này (trên dưới 20 người). Nhưng từ ngày Liên bang Xô viết giải thể, điện ảnh VN hoàn toàn vắng bóng.
Dưới ánh đèn khuya khoắc lờ mờ bài thơ Vàm Cỏ Đông ra đời. Giao liên mang về Đài phát thanh giải phóng, và in báo. Bài thơ được gửi ra miền Bắc, Đài tiếng nói Việt Nam, và in trên báo Văn nghệ Hội NVVN. Nhạc sĩ Trương Quang Lục, đã phổ thành ca khúc cùng tên. Khi phát thanh lên đã gây sự chú ý của bạn bè đồng đội, đi vào lòng nhân dân. Bài thơ cũng được đưa vào sách gióa khoa cho học sinh học. Có một Cô giáo ở Thanh Hóa rất yêu bài hát này, đến nỗi bạn bè đều gọi tên cô ấy là cô Vàm Cỏ Đông. Sau ngày giải phóng cô ấy đã vượt đường sá xa xôi, lạ lẫm hành trình, thế mà cô tìm được đến cơ quan Báo Văn Nghệ giải phóng để gặp tác giả Hoài Vũ…
Là tác giả của tác phẩm “Chiếc lá thuộc bài” trong Tủ sách Tuổi Hoa vừa tái bản đã gây ra tranh cãi ầm ĩ, nhà văn Nguyễn Thái Hải chia sẻ: “Theo tôi nghĩ, việc tái bản Tủ sách Tuổi Hoa không chỉ là in lại sách của những người viết một thời, dành cho những người đọc một thời; đó chỉ là một trong nhiều mục đích. Số sách trong tủ sách thì có hạn và cũng chỉ một số trong đó có thể in lại chứ không phải tất cả. Tới một đợt nào đó, việc tái bản cũng phải dừng lại thôi. Quan trọng là những sách tái bản này được bạn đọc nhỏ tuổi ngày nay đón nhận thế nào, việc làm này liệu có là ngọn lửa nhen lên cho một tủ sách thanh thiếu nhi tương tự trong tương lai hay không? Tủ sách lúc ấy có tìm được những tác giả là những người viết trẻ như chúng tôi ngày xưa, viết và in sách ở tuổi đôi mươi hay không? Chúng tôi bây giờ đã trên dưới 70 tuổi cả rồi, nhiều người đã mất, người còn sống thì có người còn sức viết, có người không viết được nữa... Còn gì mà đặt hy vọng!”
Văn bản do ông Phó Đức Phương – Giám đốc Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc VN ký, cho rằng: “Tiền mà Trung tâm thu là để trả cho các tác giả, sau khi trừ đi thuế GTGT và trừ hành chính phí theo đúng hợp đồng ủy quyền, Trung tâm sẽ tiến hành phân phối, chi trả đầy đủ cho các tác giả. Tỉ lệ chi trả mỗi quý đều đạt trên 90% tổng số tiền phân phối, chỉ còn một lượng tồn không nhiều do các nguyên nhân khách quan như: tác giả đã được thông báo nhưng chưa đến nhận, tác giả hẹn chờ nhiều quý rồi sẽ nhận một lần, tác phẩm đang chờ xác minh, tác giả đang chờ xác minh, tác phẩm đang có tranh chấp về đồng tác giả, về phái sinh, thừa kế, tác phẩm chờ thông tin do tổ chức thành viên quốc tế (CMO) chưa cập nhật lên hệ thống dữ liệu, tác phẩm chờ tìm đồng tác giả, hoặc chờ tìm tác giả phần thơ, phần lời… "
Khi tôi làm đêm nhạc có sử dụng một số tác phẩm của Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Thụy Miên. Bên VCPMC lại đến đòi tiền tác quyền. Lần này là 75 triệu cho 6 bài, nghĩa là 1 bài phải trả tiền tác quyền là 12,5 triệu đồng. Tổng cộng 2 đêm nhạc VCPMC đòi 150 triệu cộng với 15 triệu tiền thuế là 165 triệu. Tôi cố tình không đóng. Chương trình đã có giấy phép của Bộ VH-TT&DL, tôi không có gì phải lo lắng. Đến sát ngày diễn, họ lại cử đại diện đến. Khi tôi nói rằng việc này đang nghiên cứu xem nên “lên” báo nào thì họ lập tức hạ giọng: “Thôi anh ơi, em lấy anh 7 triệu rưỡi 2 đêm”. Điều đó đủ thấy họ làm ăn lưu manh cỡ nào...
Nhà thơ Phan Duy Nhân, tên khai sinh là Phan Chánh Dinh, tức Nguyễn Chính, nguyên Quyền Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ, vừa từ trần lúc 19 giờ 11 phút, ngày 8.7.2017. Nhà văn Phan Nhật Nam, tác giả “Mùa hè đỏ lửa”, là bạn thân của anh, cùng với Trần Dạ Từ, Nhã Ca và nhiều người có tiếng tăm khác. Vào năm 1970, khi anh đang bị tù ở Côn Đảo, ông Phan Nhật Nam đang là sĩ quan quân đội VNCH, viết cuốn sách “Ải trần gian”, ghi ngay trang đầu: “Tặng Phan Duy Nhân, kẻ hào kiệt”. Bộ Thông tin chiêu hồi VNCN đã yêu cầu ông Nam đục bỏ dòng chữ đó trước khi in, nhưng ông nhất định không chịu.
Dẫu bẽ bàng cũng phải thừa nhận, đồng tiền đang chi phối đời sống nghệ thuật. Và những nhà báo mảng văn hóa – văn nghệ cũng rơi vào vòng xoáy ấy. Một game show mới, một album mới hoặc một bộ phim mới đều xuất hiện trên báo chí với nội dung na ná nhau. Vì tất cả bài viết đều dựa trên… thông cáo báo chí do công ty tư nhân đưa ra. Không ít nhà báo có điều kiện đã nhảy ra thành lập công ty tư nhấn để theo đuổi công nghệ lăng –xê, và dùng mối quan hệ sẵn có để bơm vá hào quang cho những nghệ sĩ cánh hẩu. Còn những nhà báo văn hóa – văn nghệ khác thì đụng mặt nhau chan chát ở các buổi họp báo. Cầm một chút quà mọn, cầm một chút chi phí xăng xe và cầm thông cáo báo chí viết sẵn, cứ thế mà các nhà báo tác nghiệp một cách tạm bợ và láu lỉnh. Tất nhiên, chủ đạo vẫn là giọng khen ngợi tíu tít. Phim không cần xem, nhạc không cần nghe, sách không cần đọc… nhưng những bài viết đầy mỹ từ thơm phức vẫn xuất hiện dày đặc trên các trang báo.