Quan điểm của nhà văn Tô Hoàng: “Có thể mạnh dạn mà nói rằng, với bộ phim “Đông Dương” các nhà điện ảnh Pháp đã khai thác đến cạn kiệt cái đẹp, cái hay, chất edoticque  của thiên nhiên, biển trời, sinh hoạt văn hóa, kể cả tới những trang sử-chí ít ra của vùng đất đồng bằng Bắc Bộ. Về nét lạ, nét riêng của Miền Tây sông nước Nam Bộ - cú nạo vét ấy đã xẩy ra với phim “Người Tình”. Bộ phim “King-Đảo đầu lâu” khai thác cái lạ gì đây ở Việt Nam mà người Pháp bỏ xót hoặc chưa ngó ngàng tới? Đấy là một chút vẻ đẹp của Hạ Long thôi, còn chủ yếu là vùng hang động Thiên Đường ở Quảng Bình và những con suối, những ngọn núi của khu du lịch Tràng An ở Ninh Bình. Trong cơn cao hứng, anh chàng đạo diễn Jordan Vogt-Robert của phim “Kong-đảo đầu lâu” còn hứa hẹn sẽ quay lại Việt nam làm nhiều phim khác. Tôi không tin vào điều này…



ĐỂ PHIM ẢNH TRỞ THÀNH CHIẾC CẦU ĐÓN KHÁCH DU LỊCH

TÔ HOÀNG

Vào những ngày cuối tháng 6 vừa qua, tại Tp Hồ Chí Minh, Viện Tư liệu và Lưu trữ phim ảnh Việt Nam đã tổ chức một cuộc Tọa đàm với chủ đề “ Làm gì để phim ảnh trở thành chiếc cầu nối cho ngành du lịch”. Những ý kiến tham gia đề cập tới cái được, cái chưa được, những biện pháp cần tháo gỡ cùng những kiến giải mới mẻ, bổ ích nhắm giúp Điện ảnh nước nhà làm được chức năng này…        
Không phải đến bây giờ chúng ta mới biết vận dụng phim ảnh để quảng bá cho đât nước và dân tộc mình. Ngay trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trên mặt trận ngoại giao chúng ta đã biết sử dụng những bộ phim tài liệu phản ánh về cuộc chiến đấu của quân dân Miền Nam đánh trả các chiến lược chiến tranh của Mỹ và quân đội Sài gòn; phim về phong trào “Ba Đảm đang”, “Ba sẵn sàng”, về chiến công bắn rơi những “ Thần sấm”, “Con ma” trên miền Bắc để giành lấy thiện cảm của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ tính chất chính nghĩa cuộc kháng chiến của chúng ta. Hãy nhớ tới những bộ phim như “Đường ra phía trước”, “Nghệ thuật tuổi thơ”, “Những người săn hươu trên đỉnh núi Daksao”…của Điện ảnh Giải phóng,”Người Hàm Rồng”, “Một ngày Hà Nội”, “Trai thôn Tòng, gái thôn Bạt”…của các cơ sở làm phim Phóng sự-Tài liệu ở Hà Nội. Bằng tính trực quan sinh động của phương tiện Nghe-Nhìn, bằng yêu cầu của tính chân thực trong phương pháp sáng tác những bộ phim này đã khiến bạn bè năm châu bốn biển hiểu, thông cảm để cất lên tiếng nói đồng tình với cuộc chiến đấu chính nghĩa mà chúng ta tiến hành. Có thể nói một cách mạnh dạn, trong cuộc chiến tranh 1964-1975, bản thân phim ảnh đã mở một mũi giáp công mới lạ trong thế trận hợp đồng nhiều quân binh chủng của chúng ta, mà hình như trong lịch sử chiến tranh thế giới chưa từng xuất hiện.
            Nhưng đấy đã là chuyện của hơn nửa thế kỷ trước…  
            Ngày hôm nay điện ảnh nói riêng, phương tiện thông tin đại chúng nói chung đã tiến một bước khá dài, khá xa về phía trước. Bản thân chúng ta cũng hầu như đã nạp đầy lượng thông tin về thiên nhiên, phong cảnh, phong tục tập quán, truyền thống dân tộc của đất nước Việt Nam, con người Việt Nam cho các mạng xã hội. Ngồi ở một xứ sở dù rất xa Việt Nam đi chăng nữa, chỉ cần một cú clik chuột, bữa cỗ Việt Nam sẽ dọn ngay trước mặt khách đủ mọi món sơn hào hải vị.
            Bởi lẽ đó, làm gì để phim ảnh trở thành chiếc cầu đón khách du lịch, để mở rộng hơn nữa thị trường điện ảnh trong nước…v..v..hiển lộ ra nhiều vấn đề cần được quan tâm đích đáng.    
Nhín vào những bộ phim các nhà điện ảnh nước ngoài dàn dựng ở Việt Nam từ “Người tình”, “Đông Dương”, “Điện Biên Phủ”, “Người Mỹ trầm lặng”…cho đến “King-Đảo đâu lâu” gần đây chúng ta sẽ thấy nổi lên hai đặc điểm: Loại phim kể một câu chuyện về người Việt mình, diễn tiến dựa trên những sự kiện lịch sử ở nước mình ( “Đông Dương”, “Điện Biên phủ”, ”Người Mỹ Trầm lặng”, thậm chí cả “Người tình”. ) chiếm số lượng lớn. Mượn cái lạ, của hiếm ở nước mình làm nền cho truyện phim (“King-Đảo đầu lâu” ) còn là chuyện hiếm hoi.
Nhưng cái số nhiều ấy chuyện của ..ngày xưa !
            Thế mà ai cũng biết, phim giúp người xem cảm nhận đầy đủ, toàn diện về Việt Nam chúng ta nói chung, từ con người, phong tục tập quán đến thời tiết, phong cảnh ( kiểu như “Đông Dương”, “Người Mỹ trầm lặng”.. ) mới là món ngon đích đáng và bền lâu cuốn khách du lịch tới Việt Nam.
Bởi vậy cái chức năng của phim ảnh sẽ làm chiếc cầu đắc lực dẫn khách du lịch nước ngoài tới Việt Nam chúng ta trông cậy ở đâu? Công việc này chính là nhiệm vụ của bản thân phim ảnh được sản xuất trong nước, các nhà biên kịch, đạo diễn phải là người Việt Nam. Không ai kể hay, kể giỏi, kể sâu sắc về Việt Nam bằng chính chúng ta.
            Đáng tiếc rằng, phim Việt Nam ngày càng trượt xa về phía non yếu, bệnh hoạn, lai căng khi thì “ nhái “ Mỹ, khi thì “ nhái “ Hàn. Thảng có đôi ba phim gắng gỏi làm đậm đà thêm những gì của người Việt, của non sông đất nước Việt- tất cả cũng chỉ là sự nêm nếm, là gia giảm; còn các nhà sản xuất đều không đủ can đảm thoát ra khỏi cái công thức câu khách Tiền –Tài-Tình mà lâu nay họ vẫn đeo bám như một tấm bùa hộ mâng. 
            Từ thực tế này, xin hãy gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh:Nếu để mất đi những bộ phim sâu sắc về mặt tư tưởng; nghiêm túc về phương diện  nghệ thuật; nếu để tuột trôi những truyền thống mà nền điện ảnh dân tộc đã đạt được trong những năm tháng chiến tranh và thập niên đầu của thời kỳ mở cửa tức chúng ta đã tự đánh mất đi chính nhân lõi văn hóa của điện ảnh nói chung; khả năng giới thiệu và cuốn hút khách du lịch tới Việt Nam bằng phim ảnh nói riêng!
Có thể mạnh dạn mà nói rằng, với bộ phim “Đông Dương” các nhà điện ảnh Pháp đã khai thác đến cạn kiệt cái đẹp, cái hay, chất edoticque  của thiên nhiên, biển trời, sinh hoạt văn hóa, kể cả tới những trang sử-chí ít ra của vùng đất đồng bằng Bắc Bộ. Về nét lạ, nét riêng của Miền Tây sông nước Nam Bộ - cú nạo vét ấy đã xẩy ra với phim “Người Tình”. Bộ phim “King-Đảo đầu lâu” khai thác cái lạ gì đây ở Việt Nam mà người Pháp bỏ xót hoặc chưa ngó ngàng tới? Đấy là một chút vẻ đẹp của Hạ Long thôi, còn chủ yếu là vùng hang động Thiên Đường ở Quảng Bình và những con suối, những ngọn núi của khu du lịch Tràng An ở Ninh Bình. Trong cơn cao hứng, anh chàng đạo diễn Jordan Vogt-Robert của phim “Kong-đảo đầu lâu” còn hứa hẹn sẽ quay lại Việt nam làm nhiều phim khác. Tôi không tin vào điều này.
            Vậy sau Động Thiên đường, sau Tràng An, Việt Nam ta còn những nơi nào hấp dụ, lôi cuốn những nhà điện ảnh thế giới?
            Kèm theo câu hỏi này là một câu hỏi khác. Với phong cảnh, thiên nhiên lạ hiện nay chúng ta đang sốt sắng mời chào, lớn tiếng rao bán với các nhà điện ảnh thế giới. Hiện tượng này có gì na ná như đang bán dầu thô, vàng nguyên.Liệu chúng ta đang và sẽ lưu giữ, “đóng rào cắm cọc” vùng quê nào, góc khuất lạ lẫm gì cho chính các nhà điện ảnh của nước ta trong tương lai?
            Hoa vàng trên thảm cỏ xanh  à? Hay có một ngôi nhà nằm nghe nắng mưa đây?
            Sau vụ Fomosa, vấn đề về mối quan hệ giữa những lợi ích kinh tế và sự hủy hoại mội trường đang trở thành hồi chuông cảnh tỉnh vang lên ở khắp mọi nơi. Dù dự án kinh tế có tới bao tỷ dollar, có giải quyết công ăn việc làm cho cả chục chục ngàn người lao động, có làm biến cải một vùng quê nghèo thành những thị tứ, bến cảng văn minh, hiện đại chăng nữa, nếu dự án đó, công trình kia làm hủy hoại môi trường bắt buộc  phải hủy bỏ.
            Không hiểu tại sao, do đâu ở Việt Nam ta bỗng nổi lên cả một chiến dịch quảng bá rầm rộ cho bộ phim King-đảo đầu lâu”, dù phim cũng chỉ xếp vào loại thường thường”, còn anh đạo diễn mới chỉ thuộc hạng đáng “gõ cửa” ở Hollywood? Mà hình như việc đánh trống, gõ phèng la quanh chú khỉ đột Mỹ này cũng chỉ xẩy ra ở Việt Nam ta, chứ không xẩy ra bất cứ một nơi nào khác trên thế giới!
            Rồi anh chàng Jordan Vogt-Roberts kia còn được chính Bộ Văn Hóa- Thể thao-Du Lịch nước ta phong thánh cho làm “ Đại sứ Du lịch Việt Nam”.
            Cũng với phim “King-Đảo đầu lâu”- từ dự định của Bộ Văn - Thể-  Du nước ta, suýt nữa chú khỉ đột Mỹ này được tạc tượng ngay tại Hồ Gươm Hà Nội.Một dự định khác đã được thực thi. Tại một trong những nơi bấm máy phim “King-Đảo đầu lâu” ở khu du lịch Tràng An, không rõ Tổng Công ty Du lịch Việt Nam hay Công ty Du lịch Ninh Bình đã cho lập một điểm hút khách bởi những gì “giống như trong phim”. Cũng những túp lều hình nơm cá, những giây phơi ngoài trời và những người dân dịa phương vận khố lá, mặt bị bôi vằn vện xanh đỏ đứng trước những ngôi lều kia. Điểm tham quan này nằm không bao xa khu di tích linh thiêng thờ các vua Đinh, vua Lý- liệu có nên chăng? Trong “King-Đảo đầu lâu” có nói rõ, cái đảo đầy đầu lâu với những túp lều, những người dân mặt bôi xanh bôi đỏ kia nằm tít xa ngoài Thái Bình dương, ở một tọa độ không thuộc hải phận, không phận nước ta. Suy diễn một chút, khách du lịch quốc tế nào ghé thăm điểm tham quan “King-Đảo đầu lâu” này, trong một phút lãng quên, bỗng nghĩ rằng ở một đất nước chiến tranh liên miên suốt gần nửa thế kỷ như Việt Nam, gặp được một đảo chồng chất đầu lâu cũng là phải, thì sao đây?
            Với phim “King- Đảo đầu lâu” hình như cũng đã khiến chúng ta giật mình sực tỉnh mà nghĩ lại, không thể vì đồng tiền dồi dào từ những dịch vụ làm phim với nước ngoài để gây ô nhiễm môi trường văn hóa của chúng ta!