Nhân dịp bộ phim “Cô gái trên sông” tròn 30 năm kể từ ngày ra mắt, đạo diễn – NSND Đặng Nhật Minh chia sẻ những điều kỳ thú xung quanh tác phẩm điện ảnh nổi tiếng này: “Trong không khí của những ngày đầu Đổi mới, phim Cô gái trên sông được Cục Điện ảnh thông qua rất nhanh chóng, không gặp khó khăn trở ngại gì. Bộ phim lập tức được giới điện ảnh và công chúng đón nhận hết sức nồng nhiệt. Nhưng phim ra mắt khán giả chưa được bao lâu thì nghe tin đồn một đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng đã lên án nó gay gắt hai lần. Một lần tại diễn đàn của Hội nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một lần tại kỳ họp của Quốc hội khóa 7. Nội dung phê phán xoay quanh việc trong phim người cán bộ cách mạng thì bội bạc, còn anh lính quân đội Sài gòn, người yêu của cô gái trên sông thì lại thủy chung. Bộ phim bị coi là đã bôi nhọ hình ảnh người chiến sĩ cách mạng (tuy vậy cũng không có một văn bản chính thức nào ra lệnh cấm chiếu phim này). Ban tổ chức Liên hoan phim Việt Nam diễn ra năm 87 tại Đà Nẵng đã lâm vào cái thế hết sức khó xử. Một bên là sự đón nhận nồng nhiệt chưa từng có của công chúng Đà Nẵng và một bên là ý kiến phê phán của một đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng…”



CÔ GÁI TRÊN SÔNG tròn 30 tuổi
ĐẶNG NHẬT MINH 

Tôi bắt đầu viết kịch bản Cô gái trên sông như một món nợ tinh thần của tôi đối với xứ Huế, quê hương tôi. Cô gái trong kịch bản chính là cô gái trong bài thơ của nhà thơ Tố Hữu: Tiếng hát sông Hương. Cô gái đó tượng trưng cho nhân dân khổ đau hy vọng vào một ngày mai tươi sáng, hết lòng che chở cho cách mạng. Phim bắt đầu bằng cảnh trong bệnh viện Huế. Liên, phỏng viên của một tạp chí địa phương, đến thăm Nguyệt, cô gái vừa được đưa vào bệnh viện cách đây mấy hôm vì định lao vào xe ô tô để tự tử. Thì ra hai người đã quen nhau khi Nguyệt còn đang trong trại cải tạo nhân phẩm và Liên là nhà báo đến để viết một phóng sự. Nguyệt đã kể lại cho Liên câu chuyện riêng của mình liên quan đến một người đàn ông, người mà trước đây khi Huế còn chưa giải phóng cô đã có lần cứu giúp, rồi đem lòng yêu người đó vì những lý tưởng cao đẹp mà anh theo đuổi. Ngày ấy Nguyệt là một cô gái sống bằng nghề bán thân nuôi miệng trên sông Hương, còn người đàn ông kia là một chiến sĩ hoạt động nội thành. Trong một đêm bị địch săn đuổi người chiến sỹ đ nhẩy xuống sơng Hương rồi trèo lên một chiếc thuyền đang  neo đậu trên sông. Tình cờ thuyền đó là thuyền của Nguyệt đang chờ khách. Thuơng người gặp cảnh hoạn nạn, Nguyệt đã che dấu anh khỏi sự truy lùng của cảnh sát. Không những thế sáng hôm sau cô còn chèo đò đị ngược sông đưa anh trở về cắn cứ. Trong thời gian ngắn ngủi ẩn nấp trên thuyền người chiến sỹ cách mạng đã kịp gieo vào lòng cô gái giang hồ niềm hy vọng về một cuộc sống đầy hoa khi đất nước được giải phóng như trong bài thơ Tiếng hát sông Hương của nhà thơ Tố Hữu mà anh đã đọc cho cô nghe. Anh hứa sẽ quay lại tìm Nguyệt. Nhưng rồi anh đã không bao giờ quay trở lại. Sau ngày Huế giải phóng, Nguyệt đã cất công đi tìm anh để rồi khi tìm ra thì bị anh từ chối. Người chiến sĩ kia không nhận là đã quen cô vì anh bây giờ đã là một cán bộ cao cấp trong thành phố. Sau khi hỏi chuyện Nguyệt xong Liên viết một bài báo tố cáo, lên án sự bội bạc của người cán bộ hoạt động nội thành trước đây. Mặc dù có lệnh của trên không nên đăng bài báo đó, nhưng nhờ sự cương quyết của cả tòa soạn, cuối cùng nó vẫn được đăng. Đến lúc đó Liên mới biết rằng người cản trở không cho đăng bài báo của cô chính là chồng mình và anh chính là người cán bộ cách mạng bội bạc mà cô đang lên án.

Đây là thời kỳ đất nước bắt đầu đổi mới. Kịch bản đươc thông qua dễ dàng, thuận lợi. Tôi đã mời nữ diễn viên Minh Châu vào vai Nguyệt, không chút do dự, mặc dù trước đó Minh Châu chỉ mới xuất hiện trong một vài phim không để lại ấn tượng gì đặc biệt. Tôi tin ở sự lựa chọn của mình và quả thực Minh Châu đã hoàn thành xuất sắc vai diễn này. Trong thời gian đang làm phim ở Huế, tôi đọc báo biết tin ở Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh có cuộc gặp gỡ anh chị em văn nghệ sĩ kêu gọi không uốn cong ngòi bút, cởi trói và hãy tự cứu lấy mình trước khi Trời cứu. Tôi yên tâm tiếp tục làm phim, lòng mừng khấp khởi nghĩ rằng từ đây người nghệ sĩ sẽ được thoải mái hơn trong sáng tác. Người quay phim này là Phạm Việt Thanh, một quay phim trẻ, khỏe mạnh và đây là phim truyện đầu tay của anh. Phim đã quay được gần một nửa mà tôi vẫn chưa quyết định nên mời ai làm nhạc. Tôi bỗng nghĩ đến nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, một người rất nặng lòng với Huế, bèn gọi điện vào Thành phố Hồ Chí Minh. Chỉ cần nói tôi đang ở Huế, đang làm một phim về Huế, và có ý định mời Sơn làm nhạc cho phim, lập tức anh nhận lời ngay không chút do dự, mặc dầu chưa biết nội dung phim. Sau này khi phim đã dựng xong hình ảnh đem vào thành phố Hồ Chí Minh để lồng tiếng tôi mới chiếu cho Sơn xem. Người lồng tiếng Huế cho vai Nguyệt trong phim là ca sĩ Thanh Lan. Cha cô là người Bắc, mẹ là người Huế, sinh sống ở miền Nam, cô nói được giọng cả ba miền không hề pha trộn. Thanh Lan rất nhiệt tình lồng tiếng cho phim, mặc dầu trước đó cô chưa hề lồng tiếng cho bất cứ phim nào trừ những phim có vai diễn của mình. Sau khi hoàn thành xong phần lồng tiếng thì Sơn cũng vừa soạn xong phần âm nhạc. Hôm thu nhạc cho phim, Sơn bị sốt cao nhưng vẫn cố đến phòng thu để theo dõi, sửa chữa những chỗ cần sửa, làm việc với dàn nhạc do nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu chỉ huy. Âm nhạc mềm mại và sâu lắng của Sơn đã hỗ trợ cho phim rất nhiều.

Trong thời gian lồng tiếng tại số 6 Đồn Đất thành phố Hồ Chí Minh có một sự việc làm tôi nhớ mãi. Một buổi chiều ông Đinh Triết, Giám đốc Phát hành phim Trung ương vừa bay từ Hà nội vào, đang ở bên khách sạn Caravelle, lững thững ghé sang chơi. Thấy tôi đang loay hoay làm việc với anh chị em diễn viên lồng tiếng trong phòng thu ông mỉm cười rồi nói: Thôi làm phim này là phim cuối cùng. Sắp tới không ai làm phim nhựa nữa. Tôi ngạc nhiên hỏi: Tại sao vậy? Ông đáp: Cậu không biết gì à? Bây giờ người ta mới sáng chế ra loại phim video, không cần in tráng lôi thôi. Chiếu lên màn ảnh to trông rõ mồn một. Tơi đâm hoang mang. Quả tình tôi chưa nghe nói đến kỹ thuật tân kỳ này bao giờ. Tôi cũng không biết rằng những ngày ấy các cán bộ chủ chốt của ngành điện ảnh kéo nhau vào thành phố HCM để họp bàn một việc hệ trọng: chuyển hướng điện ảnh Việt Nam sang làm phim video và chiếu phim video, một chủ trương gây biết bao hệ lụy tai hại cho ngành về sau.

Trong không khí của những ngày đầu Đổi mới, phim Cô gái trên sông được Cục Điện ảnh thông qua rất nhanh chóng, không gặp khó khăn trở ngại gì. Bộ phim lập tức được giới điện ảnh và công chúng đón nhận hết sức nồng nhiệt. Nhưng phim ra mắt khán giả chưa được bao lâu thì nghe tin đồn một đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng đã lên án nó gay gắt hai lần. Một lần tại diễn đàn của Hội nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một lần tại kỳ họp của Quốc hội khóa 7. Nội dung phê phán xoay quanh việc trong phim người cán bộ cách mạng thì bội bạc, còn anh lính quân đội Sài gòn, người yêu của cô gái trên sông thì lại thủy chung. Bộ phim bị coi là đã bôi nhọ hình ảnh người chiến sĩ cách mạng (tuy vậy cũng không có một văn bản chính thức nào ra lệnh cấm chiếu phim này). Ban tổ chức Liên hoan phim Việt Nam diễn ra năm 87 tại Đà Nẵng đã lâm vào cái thế hết sức khó xử. Một bên là sự đón nhận nồng nhiệt chưa từng có của công chúng Đà Nẵng và một bên là ý kiến phê phán của một đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng. Hơn thế nữa kết quả cho điểm bằng phiếu kín của các thành viên trong Ban Giám khảo cho thấy bộ phim Cô gái trên sông đạt số điểm cao nhất. Nghe tin bộ phim bị cấp trên phê phán, một số người xấu bụng tung tin bộ phim đã bị cấm chiếu làm Ban tổ chức lại càng hoang mang, có lúc đã định gạt hẳn phim ra khỏi danh sách giải thưởng. Cuối cùng người ta đã tìm ra được một giải pháp dung hòa: chỉ cho phim Cô gái trên sông giải Bông Sen Bạc (trong khi lẽ ra nó đủ điểm để được Bơng sen Vàng). 
Về sau tôi được nghe một số người trong Ban tổ chức kể lại: việc phim Cô gái trên sông chỉ được giải Bạc đã gây nên một làn sóng bất bình trong khán giả Đà Nẵng. Những ngày đó, sự tung tin, vận động, xúi giục trước khi bước vào Liên hoan phim của một số người trong giới điện ảnh làm tôi cảm thấy hết sức chán ngán nên đã quyết định không tham dự Liên hoan phim Đà Nẵng. Cả đoàn làm phim cũng theo tôi cùng ở lại Hà Nội. Tôi cùng chủ nhiệm Vũ Văn Nha, nhà quay phim Phạm Việt Thanh và nữ diễn viên Minh Châu nhận lời mời của Công ty chiếu bóng Hà Bắc lên Bắc Giang tiếp xúc với bà con trên ấy. Trong lúc đó ở Đà Nẵng khán giả chờ đợi chúng tôi từng ngày. Có người tung tin rằng chúng tôi vào tới Huế, thấy phim bị cấm chiếu bèn lộn ra (sau này nhiều người khi về qua Huế thấy khắp thành phố căng đầy áp phích của phim mới biết mình bị lừa). Sự nhiệt tình của khán giả Đà Nẵng năm ấy đã làm các nhà điện ảnh nước ngoài được mời tham dự phải ngạc nhiên. Ông Đinh Triết, giám đốc Phát hành phim Trung ương cho biết số người xem Cô gái trên sông đông đến nỗi tiền bán vé thu được từ bộ phim này đủ để trang trải toàn bộ mọi chi phí của Liên hoan phim, thậm chí còn thừa. Ông đề nghị trích tiền doanh thu của phim ra để thưởng cho đoàn làm phim, nhưng không ai dám quyết. Sau Liên hoan phim, Đoàn thanh niên Đà Nẵng đã mời nữ diễn viên Minh Châu vào gặp gỡ với khán giả trẻ thành phố và mời chị làm đoàn viên danh dự. Minh Châu trở thành người nữ diễn viên được hâm mộ nhất lúc bấy giờ qua vai Nguyệt trong Cô gái trên sông. Dù sao bộ phim cũng đã nhận được giải Bông sen Bạc và Giải nữ diễn viên xuất sắc, Giải quay phim xuất sắc, trái với dự định của những kẻ rắp tâm muốn hãm hại nó.
Sau đợt chiếu đó, khán giả trong nước không bao giờ được xem lại phim Cô gái trên sông nữa, mặc dầu không có một văn bản chính thức nào cấm chiếu (hoặc có thể có mà tôi không được biết). Trớ trêu thay, bộ phim Cô gái trên sông lại được dư luận nước ngoài đón nhận như một biểu hiện đường lối Đổi mới của Việt Nam. CHDC Đức là nước đầu tiên mua để chiếu bộ phim này tại Tuần phim của các nước XHCN tổ chức tại thành phố Kotbus với bản phim đã được lồng tiếng Đức (hồi đó phe XHCN chưa tan rã). Sau này Nhật Bản, Mỹ, Canada, Ấn Độ... và nhiều nước khác tiếp tục mời chiếu. Ở đâu nó cũng được đón nhận với nhiều thiện cảm. Năm 1992 khi tôi sang New York để dự Tuần phim Việt Nam do Công ty Asean Cinevision đứng ra tổ chức, đại sứ Lê Văn Bàng đã nói với tôi: Anh cứ đem phim Cô gái trên sông ra để chứng minh cho đường lối Đổi mới của ta trong lĩnh vực văn nghệ (ông ở xa nên không biết bộ phim bị trong nước phê phán). Trong buổi chiếu phim này tại New York ông đại sứ và phu nhân cũng có mặt và tỏ ra rất hài lòng. Đến năm 1996, có nghĩa là 10 năm sau Đổi mới, Liên hoan phim Toronto giới thiệu một chương trình phim Việt Nam trong đó có phim Cô gái trên sông. Thật oan cho bộ phim khi được nước ngoài đón nhận như một dấu hiệu đáng mừng của công cuộc Đổi mới ở nước ta! Quả thật số phận của bộ phim cũng long đong như số phận cô gái được miêu tả trong phim, nhưng cái kết cục của nó lại rất có hậu. Tháng 4 năm 2000, để kỷ niêm 25 năm ngày Giải phóng miền Nam, kênh truyền hình ARTE, một kênh truyền hình chuyên đề văn hóa của châu Âu đã chiếu lại phim Cô gái trên sông. Đây là bộ phim truyện Việt Nam duy nhất được chọn chiếu trong dịp này. Hình ảnh và màu sắc của phim còn rất tốt vì đó chính là bản phim đã được Cộng hòa dân chủ Đức mua trước đây và đã được bảo quản chu đáo. Sau 13 năm, phim Cô gái trên sông đã sống lại lần thứ hai, một cách thật bất ngờ và ngoạn mục.