Có phải “Nỗi buồn chiến tranh” được chào đón ở nước ngoài chỉ vì yếu tố chính trị không? Việt Nam trong thế kỷ 20 là một biểu tượng chiến tranh trong mắt bạn bè năm châu. Tác phẩm của Bảo Ninh chỉ mang lại gợi ý khám phá về một dân tộc, nhưng quan trọng hơn là chạm đến số phận con người. “Nỗi buồn chiến tranh” ấn tượng ngay chính cái tên. Nếu tiểu thuyết đổi thành “Thân phận của tình yêu” như một dạo, thì chắc chắn giá trị sẽ tụt giảm ít nhiều. “Nỗi buồn chiến tranh” được nhìn qua lăng kính nhạy cảm của nhân vật Kiên “có lẽ rất ít người cầm bút đương thời nào nào chứng kiến nhiều cái chết và thấy phải nhiều xác chết đến như Kiên. Vì thế sách anh đầy rẫy tử thi.”. Do đó, bạn đọc ở quốc gia nào cũng có thể đồng cảm “nỗi buồn chiến tranh trong lòng người lính có cái gì tựa như nỗi buồn của tình yêu, như nỗi nhớ nhung quê nhà, như biển sầu lúc chiều buông trên bến sông bát ngát”. 


BỤT CHÙA NHÀ ĐẾN LÚC CŨNG PHẢI THIÊNG!

LÊ THIẾU NHƠN

Tính đến thời điểm này, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh là cuốn tiểu thuyết Việt Nam được chuyển ngữ và xuất bản nhiều nhất trên thị trường sách quốc tế. Do đó, “Nỗi buồn chiến tranh” có đoạt thêm giải thưởng của Hàn Quốc cũng không có gì đáng sửng sốt. Thế nhưng, ngay trên chính sân nhà, “Nỗi buồn chiến tranh” vẫn lênh đênh theo kiểu đặc trưng của một nền văn học chưa thoát khỏi tư tưởng bao cấp.

“Nỗi buồn chiến tranh” không đồ sộ về số trang in cũng như không phong phú về số nhân vật. “Nỗi buồn chiến tranh” chỉ xoay quanh số phận của Kiên trong vai trò một người lính nhiều nhiệt huyết, nhiều trăn trở và nhiều mất mát. “Nỗi buồn chiến tranh” xuất hiện đúng thời điểm văn học Việt Nam hào hứng với quan niệm “cởi trói” và “chống lại sự im lặng đáng sợ”. Tuy nhiên, chính những người trao giải thưởng Hội nhà văn VN năm 1991 cho “Nỗi buồn chiến tranh” sau đó cũng lưỡng lự đính chính. Rõ ràng, giá trị tác phẩm chưa được mặc định trên chính trang giấy, mà còn bị chi phối bởi những hệ lụy xung quanh. 

Hai tên tuổi lớn của văn học Việt Nam đương thời là Nguyễn Quang Sáng và Nguyễn Khải, đã tỏ ra ăn năn về việc mình bỏ phiếu bình chọn cho “Nỗi buồn chiến tranh”. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng có ý tiếc nuối: “Tôi nghĩ rằng, đối với người hiểu biết văn học không ai có thể coi đây là một tác phẩm tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, lại càng không thể coi đây là một tác phẩm tiêu biểu về cuộc chiến tranh đánh Mỹ của nhân dân ta. Nhưng cái điều không ngờ nó lại đến. Không ngờ những người trong nước cũng như nước ngoài thiếu thiện chí đã khoét sâu cái mặt nhược của tác phẩm để thực hiện ý đồ chính trị của mình!”. Còn nhà văn Nguyễn Khải thì hơi chột dạ: “Tôi chỉ còn biết tự rút ra một kết luận: phàm đã đọc và đánh giá một tác phẩm văn học không nên chỉ căn cứ vào những cảm hứng ban đầu thuần túy văn chương của mình, mà còn phải biết nghĩ đến tác động của nó về mặt xã hội và chính trị tới đông đảo bạn đọc không chỉ ở trong nước mà còn cả ở ngoài nước. Không phải mình muốn bày vẽ ra thế, mà sự đời nó buộc mình không thể không nghĩ rộng ra như thế!”.

Có phải “Nỗi buồn chiến tranh” được chào đón ở nước ngoài chỉ vì yếu tố chính trị không? Việt Nam trong thế kỷ 20 là một biểu tượng chiến tranh trong mắt bạn bè năm châu. Tác phẩm của Bảo Ninh chỉ mang lại gợi ý khám phá về một dân tộc, nhưng quan trọng hơn là chạm đến số phận con người. “Nỗi buồn chiến tranh” ấn tượng ngay chính cái tên. Nếu tiểu thuyết đổi thành “Thân phận của tình yêu” như một dạo, thì chắc chắn giá trị sẽ tụt giảm ít nhiều. “Nỗi buồn chiến tranh” được nhìn qua lăng kính nhạy cảm của nhân vật Kiên “có lẽ rất ít người cầm bút đương thời nào nào chứng kiến nhiều cái chết và thấy phải nhiều xác chết đến như Kiên. Vì thế sách anh đầy rẫy tử thi.”. Do đó, bạn đọc ở quốc gia nào cũng có thể đồng cảm “nỗi buồn chiến tranh trong lòng người lính có cái gì tựa như nỗi buồn của tình yêu, như nỗi nhớ nhung quê nhà, như biển sầu lúc chiều buông trên bến sông bát ngát”. Và cũng không quá khó khăn để nhận ra khát vọng của nhân vật Kiên cũng là khát vọng của Bảo Ninh: “Bằng sự trầm mình sâu xa trong hồi tưởng, trong nỗi đau buồn chiến tranh không bao giờ nguôi mà anh sẽ tồn tại đến trót đời với thiên chức là một cây bút của những người đã hy sinh, là nhà tiên tri những năm tháng đã qua đi, người báo trước thời quá khứ”. 

Tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” chưa hẳn là một kiệt tác, nhưng ở đó có mẫu số chung gây xúc động cho bất kỳ bạn đọc màu da nào, quốc tịch nào: sự mong manh của từng con người trước mưa bom bão đạn! Chính cái đề tài và những trải nghiệm thực tế của Bảo Ninh được phơi bày, đã làm nên sức quyến rũ cho “Nỗi buồn chiến tranh”. Dù khen dù chê, dù ghét dù yêu”, thì “Nỗi buồn chiến tranh” cũng làm được một sứ mệnh mà tác phẩm văn học phải gánh vác: mang đến cho người đọc nhận thức không tô vẽ về cuộc sống. Nhận thức ấy có thể là sự hoang mang, và nhận thức ấy cũng có thể là sự đau đớn. Thế nhưng, khi và chỉ khi, nhận thức từ phía công chúng được gõ cửa thì tác phẩm văn học mới có quyền tồn tại!

Câu cửa miệng “bụt chùa nhà không thiêng” luôn được nhắc đến đầu tiên, khi “Nỗi buồn chiến tranh” bị hụt giải thưởng Nhà nước. Thực ra, cái tâm lý ấy không phải quá phổ biến. Những người từng đọc “Nỗi buồn chiến tranh” sẽ có cách đánh giá riêng. Và suốt một phần tư thế kỷ qua, “Nỗi buồn chiến tranh” đã tự đi trong nhu cầu thưởng thức của xã hội một cách âm thầm và bền bỉ. Không vì có thêm một giải thưởng mà “Nỗi buồn chiến tranh” được kê cao hơn, hoặc không vì giảm bớt một giải thưởng mà “Nỗi buồn chiến tranh” sụt giảm vị trí. Một tác phẩm đích thực phải chấp nhận sự đón nhận từ nhiều xu hướng khác nhau, vồ vập hoặc hờ hững, thân thiện hoặc đả kích. Và càng trải qua thăng trầm, thì những suy tư trong tác phẩm càng được bồi đắp, càng được hiển lộ!

Đối với bạn đọc không bị định kiến dẫn dắt, thì “Nỗi buồn chiến tranh” rì rầm ở sự âu lo “chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới thảm sầu vô hạn và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người”, và “Nỗi buồn chiến tranh” cũng nâng đỡ ở sự chịu đựng “ký ức tình yêu và ký ức chiến tranh kết thành sinh lực và thành thi hứng, giúp anh thoát khỏi cái tầm thường bi đát của số phận anh sau chiến tranh”. 

Nếu đọc được “Nỗi buồn chiến tranh” trong trọn vẹn cấu trúc hồi ức của tác phẩm và tinh thần sáng tạo của tác giả, thì chẳng ai còn quan tâm đến giải thưởng lớn nhỏ và thị phi bủa vây cuốn sách. Nhiều năm qua “Nỗi buồn chiến tranh” đã bước ra khỏi biên giới như một đại diện ưu tú của văn học Việt Nam. Ngay cả thị trường sách Trung Quốc cũng chào đón “Nỗi buồn chiến tranh” một cách trọng thị. Nhà văn – nhà phê bình khá nổi tiếng ở đất nước 1,3 tỷ dân này là Diêm Liên Khoa đã không ngần ngại khẳng định “Nỗi buồn chiến tranh” là “một sáng tác hiếm có của châu Á trong văn học thế giới”. Tất nhiên, ngôn từ ấy không phải đãi bôi ngoại giao. Nhà văn – nhà phê bình Diêm Liên Khoa đã viết lời nói đầu cho “Nỗi buồn chiến tranh” dịch sang tiếng Hoa với tựa đề “Tầm cao của văn học chiến tranh phương Đông”. 

Xin được lược trích vài dòng hào hứng của nhà văn – nhà phê bình Diêm Liên Khoa về “Nỗi buồn chiến tranh” để tin rằng bụt nhà rồi đến lúc cũng phải thiêng: “Tôi với tư cách là một tiểu thuyết gia đã có đến 26 năm trong quân đội, đọc xong tiểu thuyết này, cảm giác mãnh liệt nhất, đó chính là giả sử ngay từ cuối những năm 80 hoặc muộn hơn một chút vào đầu những năm 90, chúng ta có thể dịch “Nỗi buồn chiến tranh” sang tiếng Trung giống như “Vòng hoa dưới núi” của nhà văn Trung Quốc - Lý Tồn Bảo vừa xuất bản hồi đầu những năm 80 đã gần như đồng thời được dịch sang tiếng Việt, thì nhận thức của chúng ta đối với văn học Việt Nam sẽ không đến nỗi phong bế và hạn hẹp như hôm nay”.