Về công việc đào đãi vàng, trước Nguyễn Trí đã có nhiều người viết, nhưng hầu hết họ “cưỡi ngựa xem hoa”, hóng hớt được vài ba câu chuyện rồi tưởng tượng thêm bớt, từ đó sinh ra những trang sách đọc chỉ thấy dao găm, súng lục. Viết với tư cách là người trong cuộc, từng bổ cuốc khui hầm, ra suối lắc mâm, xuống địa tầng lấy bổi… có thể nói ông là người “độc nhất vô nhị”. Điều này kể cũng không có gì lạ, anh quen thuộc cái gì thì viếtcái ấy, nhà văn nào chẳng vậy. Cái lạ là ở bản thân người viết. Làm sao từ một người mê chữ nghĩa, sách đọc đến thiên kinh vạn quyển, bị cuộc sống sàng lắc thế nào mà lại trở thành dân địu, phu vàng, thành đại ca trong những cuộc làm ăn,thuộc hết sáu câu của các trò lừa đảo khiến một người đọc là tôi cứ phải băn khoăn đi tìm căn nguyên

Vàng của tâm hồn, vàng của văn chương

NGÔ XUÂN HỘI

Tài năng nói chung, tài năng văn chương nói riêng luôn là của hiếm. Vì thế, hàng năm Hội Nhà văn Việt Nam vẫn xét trao giải thưởngcho những tác phẩm xuất sắc in trong năm, nhưng đọng lại với thời gian chẳng bao nhiêu. Trong lĩnh vực văn xuôi, được nhắc đến hơn hai mươi năm nay, nhiều nhất vẫn là những tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bến không chồng của Dương Hướng. Với tâm lý “Tôi có chờ đâu có đợi đâu…” đó, ngày Hội công bố giải thưởng văn học của Hội năm 2013, cân nhắc trong “tứ tử trình làng” tôi không biết mình nên đọc ai. Tử thứ nhất thì nổi tiếng quá rồi, thêm một giải nữa cũng chẳng làm ông nổi tiếng hơn. Tử thứ hai, tử thứ ba tôi cũng đã biết. Còn tử thứ tư, Nguyễn Trí ?Đầu năm ngoái đi họp Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh, thấy Tô Hoàng cầm cuốn Thiên đường ảo vọng của ông, tôi hỏi:
“Hay không bác ?”.
“Hay! - Tô Hoàng đáp, đoạn nói thêm - Ban đầu tớ nghĩ Nguyễn Trí chắc chỉ có vốn sống, nhưng đọc thì biết mình nhầm. Nó viết giỏi…”.

Được Tô Hoàng đảm bảo, họp xong tôi phóng đến hiệu sách tìm mua ngay. Đọc, thấy đúng như bác ấy nhận xét: “Hay!” và “Nó viết giỏi”. Trước hết nói về mặt đề tài. Giống như Bãi vàng, Giã từ vàng, Đá quý, Trầm hương… những truyện ngắn đã đưa Trí đến với giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, Thiên đường ảo vọng vẫn là chuyện đi tìm vàng, nhưng được tác giả triển khai trên bình diện tiểu thuyết với một dung lượng rộng lớn về không gian, thời gian và nhân vật. Câu chuyện bắt đầu từ việc hai nhân vật Lâm lạnh, Cường Linh rời trại lao cải về nhà. Rồi cả ba (thêm Bình võ) hành phương Nam tới Suối Bến Tỷ (tức Suối Nho trên thực địa) của miền Đông Nam bộ. “Cường thì phải vào cùng vợ con, Bình kiếm công việc. Lâm, sao cũng được…”. Trên đường đi, đụng sự với nhà xe, có thêm Bá Điệp chánh hiệu dân miền Đông nhập bọn. Được Bá Điệp hướng đạo, cả bọn tìm tới Suối Bến Tỷ làm nghề cưa cây. “Hôm ấy bộ tứ sạch bách sau hành quân truy quét tệ nạn phá rừng. Bên bờ con suối có tên Một Chặng. Cả bốn nằm gối đầu lên đá thở dài… Thấy Bình đang quỳ bên vách bờ suối. Lâm hỏi: “Mày làm gì đó Bình ?”. “Tao nghi nghi”. “Nghi gì, nói nghe chơi ?”. Tao nghi đất này có vàng. Hồi ở Êzimbar luồng bổi có vàng y như thớ đất này”. Bãi vàng Suối Nho cộm cán ở Đồng Nai những năm tám chín, chín mươi, kỷ hai mươi được bắt đầu như vậy.
Bàn về kịch, Sêkhốp viết (đại ý): “Nếu ở hồi đầu thấy trên tường nhà có treo khẩu súng, ở những hồi sau khẩu súng ấy phải được đem ra bắn”. Văn thì cũng không đi ngoài nguyên tắc ấy, vì Sêkhốp chỉ diễn đạt luật nhân – quả. Tôi không biết khi viết Thiên đường ảo vọng,Nguyễn Trí đã đọc Sêkhốp chưa, nhưng phép tiền hô hậu ứng, một kỹ thuậtviết mà văn hào Nga xác tín, luôn được ông thấu triệt. Mở đầu tiểu thuyết, nhân vật Cường Linh (Cường con ông Linh) bị anh em gọi là Đại Ngu, dù cái ngu của Cường chỉ do thiếu từng trải, không biết phân biệt đâu kỳ nam đâu củi mục, thì cũng không phải là ngẫu nhiên. Cuối sách, cái ngu đã khiến Cường đáng nhẽ cắm dây môtơ tời kéo thì lại cắm nhầm dây trái nổ, gây nên một vụ nổ lớn giết chết Lâm lạnh, một giang hồ bạn, một chính nhân quân tử ở bãi vàng. Vụ nổ Cường bất cẩn gây ra, đã đặt dấu chấm hết cho Cường Chương, một trùm bãi; cho Đinh Tình, một tội phạm lấy bãi vàng làm nơi ẩn náu; cho Cường Linh, Tùng hí đang trốn chui trốn nhủi để tránh bị bắt, cho toàn bộ bãi vàng Long Mỹ nổi đình nổi đám lâu nay. Giữa hai chi tiết sinh tử đó là mênh mông thế sự của đám đông dân chúng ở Bến tắm ngựa, gọi theo cách giang hồ đặt tên cho nơi tập hợp những người khổ cực nhất gầm trời. Chuyện mối tình tay ba giữa Bá Phượng – Lâm Lạnh – Bình võ, chuyện trúng vàng, mất vàng chuyện đâm chém dựt giọc của các chủ nợ và con nợ… mà chỉ những người đã lăn lộn ở Bến mới viết được.
Về công việc đào đãi vàng, trước Nguyễn Trí đã có nhiều người viết, nhưng hầu hết họ “cưỡi ngựa xem hoa”, hóng hớt được vài ba câu chuyện rồi tưởng tượng thêm bớt, từ đó sinh ra những trang sách đọc chỉ thấy dao găm, súng lục. Viết với tư cách là người trong cuộc, từng bổ cuốc khui hầm, ra suối lắc mâm, xuống địa tầng lấy bổi… có thể nói ông là người “độc nhất vô nhị”. Điều này kể cũng không có gì lạ, anh quen thuộc cái gì thì viếtcái ấy, nhà văn nào chẳng vậy. Cái lạ là ở bản thân người viết. Làm sao từ một người mê chữ nghĩa, sách đọc đến thiên kinh vạn quyển, bị cuộc sống sàng lắc thế nào mà lại trở thành dân địu, phu vàng, thành đại ca trong những cuộc làm ăn,thuộc hết sáu câu của các trò lừa đảo khiến một người đọc là tôi cứ phải băn khoăn đi tìm căn nguyên. Và căn nguyên như thế này.

Ông thân sinh Nguyễn Trí quê Bố Trạch, Quảng Bình, bị Pháp bắt lính năm 1945 khi vừa tròn 20 tuổi. To khỏe, đẹp trai, giỏi võ ông được áp ngay vào Huế làm Ngự lâm quân cho Bảo Đại. Cách mạng tháng 8 bùng nổ. Hoàng đế trở thành cựu hoàng,đưa cả đội lính Ngự lâmlên Đà Lạt sinh sống. Năm 1955, cựu hoàng ra nước ngoài định cư, đội lính ngự lâm nghiễm nhiên trở thành lính của chế độ Việt Nam cộng hòa. Không như bộ đội cụ Hồ: “Khi có giặc người con trai ra trận/ Người con gái ở nhà nuôi cái cùng con…”, bộ đội của các cụ Bảo Đại, Diệm, Khánh, Dương Văn Minh… đi đâu cũng đùm túm vợ con theo. Nên mới có chuyện mười đứa con ông cựu Ngự lâm quân, mỗi đứa sinh một nơi. Mới có chuyện Nguyễn Trí, đứa con thứ năm của ôngđẻ ở Bình Định, lại học tiểu học ở Gia Lai, học THCS ở Buôn Ma Thuột, THPT ở Quy Nhơn. Với cách dạy chữ lưu động đó, chẳng có gì ngạc nhiên khi chàng nho sinh dù rất sáng dạ, đường kinh sử cũng chỉ dừng ở mức đọc thông viết thạo.
Xảy ra sự kiện 30-4-1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.Đang sống đời sung túc, gia đình ông cựu Ngự lâm quân bỗng rơi thẳng đứng xuống bần cùng: Nhà ở, một gian trong khu gia binh ngụy, không có của dự trữ, bố mẹ và các con mười hai nhân mạng không một ai có công ăn việc làm. 

Để xảy ra tình trạng này, nói do thời thế cũng được, nhưng nếu nói do sự ngu tíncủa gia chủcũng không sai. Bị bắtlính năm 20 tuổi, ông cựu Ngự lâm quânmang nặng nỗi hoài hương trong lòng. Tiền lương đáng lẽ dùng mua nhà,kiếm một chỗ ở ổn định cho vợ con ônglại đem gửi hết vào ngân hàng. Hy vọng một ngày nào đó trở về quêQuảng Bình, xây tòa ngang dãy dọc. Sau 30/4/1975, gần 600 cây vàng (quy từ số dư tiền gửi của ông) trở thành giấy lộn, gia sản gia đình lùi về số mo. Nhưng với niềm tin ngây thơ sẽ có một ngày Mỹ trở lại miền Nam, ông kiên quyết không đi Đăklăk, Lâm Đồng hay Cát Tiên, những vùng kinh tế mới nhiều hứa hẹn lúc đó. Tuy nhiên trước đời sống ngày một khó khăn,năm 1978gia đình ông cũng phải dinh tê lên Tuy Phước, khu kinh tế mới giáp ranh, cách Quy Nhơn 10 cây số. Rồi không sống nổi ở Tuy Phước,hai vợ chồng ông lại hồi cư Quy Nhơn, con cái thì ly tánmỗi đứa mộtnơi. Nguyễn Trí vào Đồng Nai như thế. Anh vào cùng người bạn gái, bắt đầu một thiên tình sử đầy nước mắt. Hai người yêu nhau đã mấy năm. Nhà gái thấy nhà trai nghèo quá, từ chối gả con. Lỡ gắn bó với nhau quá rồi, cô gái quyết định trốn gia đình,cùng anh xa xứ. Tới miền Đông đất đỏ, cả hai dắt dìunhau xuống Bình Giã. Nam bộ lúc ấy hoang vu, lộ 51 Sài Gòn đi Cấp rừng mọc ra tận mép đường, có khoanh chiếm cả Bình Giã chắc cũng không ai nói gì. Và thế là Trí chặt cây dựng lán, làm chỗ trú thân cho hai người. Đến lúc này anh bỗng tin chuyện Mai An Tiêm, chuyện Rôbimxơn Cruxô là có thật. Nhưng mô hình gia đình “một mái lều tranh, hai trái tim vàng” chỉ đẹp trong những tích tuồng cổ, trên thực tế nó chó hơn đời chó. Được ba tháng, cô gái của anhkham không nổi, đànhgiã từ bạn tình để quy cố hương. Không làm cách nào được, Trí theo về, giục người lớn xuống nhà cô thưa chuyện tiếp. Thương quá mà làm vậy, chứ kết quả ra sao thì Trí biết rồi.
Về phía nhà gái, việc con gái bỏ nhà theo trai là một ô nhục lớn. Để trốn tránh, gia đình cô lặng lẽ dắt con bỏ Quy Nhơn đi biệt tích. “Tìm em như thể tìm chim…”Suốt ba năm (1980-1983), Trí lăn lóc làm thuê làm mướn khắp các khu kinh tế mới ở Đồng Nai để dòtung tíchvợ. Và quả là anh đã dò được thật, nhưng không phải vợ này mà vợ kia. Sau khi đã quần nát Suối Nho, Phú Hòa, Thanh Sơn, 107…những khu kinh tế mới dọc quốc lộ 20, lên cả Tà Lài (Lâm Đồng), người anh tìm vẫn mất hút bóng chim tăm cá. Thất vọng, năm 1983Trí mò xuống quốc lộ 56, tới Châu Đức (Bà Rịa – Vũng Tàu) thì gặp một cô gái cũng người Quy Nhơn. Cả hai trở thành vợ chồng, sống đời với nhau cho tới đầu muối tiêu, răng cái lung cái lay hôm nay.

Năm 2005, tròm trèm 50 tuổi,giang hồ hết mộng bốn phương. Gã dắt vợ con rời Sài Gòn về Nhơn Trạch, Đồng Nai làm phu hồ xây nhà trong khu công nghiệp. Một buổi trưa gã cùng đứa con trai đầu ngồi dưới bóng một cây phượng già ăn cơm. Ăn xong, con trai đi thụt bi da, còn gãloay hoay tìm chỗ chợp mắt. Bỗng một chiếc Taxi trờ tới. Từ trên xe một thiếu phụ bước xuống, hỏi gã đường đi Công ty hóa mỹ phẩm Debon. Gã ngẩng đầu lên nhìn khách mà chết lặngcả người, một nửa cuộc đời gã hơn hai mươi năm trước đang hiển hiện bằng xương bằng thịt trước mặt. Thiếu phụ cũng giật mình nhận ra người xưa, liền hấp tấp bước trở lại xe. Chiếc Taxi vội vã quay đầu, lao vút. Rất nhanh, gã phóng Honda đuổi theo. Sau khi đã chạy gần 100 cây số, tới thị trấn Chơn Thành, tỉnh Bình Phước chiếc Taxi dừng lại, cũng là lúc giang hồcập sát. Biết không thể trốn chạy quá khứ, thiếu phụ đứng đợi gã. Hai người gặp nhau. Không có nước mắt cũng không có nụ cười, chỉ có những lời trao qua đổi lại. Nhờ đó, gã biết mình có một đứa con trai,25 tuổi. Một năm sau ngày hai bố con gã gặp nhau, con trai của gã và thiếu phụ bịtai nạn giao thông giết chết.
Câu chuyện tình buồn này tôi nghe Nguyễn Trí kể. Nhưng tôi đoan chắcsẽ được đọc nó trong một tác phẩm nào đó của ông nay mai, vì Nguyễn Trí là vậy. Không một chi tiết đời sống nào ông bỏ qua. Từ phút im lìm ngậm một cọng cỏ may nằm bên vệ đường thuở thiếu thời, cho đến cảnh bị đám xã hội đen Sài Gòn truy sát khi đã nhiều nếm trảido trót vay nặng lãi để lấy tiền chữa bệnh ápxe gan, sinh ra một đống nợ, trả không nổi dù đã bán nhà… tất cả tất cả được ông viết thành những trang văn sống động. 

Henri Charrière viết “Papillon người tù khổ sai” vì thấy chuyện tù tội của mình hay hơn chuyện tù tội của nhân vật được kể trong một cuốn sách thuộc loại Best Sellers thời ấy. Nguyễn Trí không có được sự tự tin của ông nhà văn người Pháp nọ. Ông viếtlà để giải tỏa những bức bách trong lòng, không hề mơ in báo. Nhưng điều phải đến cũng đến. Một hôm đi dạo trong nhà sách Thăng Long ở đường Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Hồ Chí Minh, ông nghe hai người khách bên cạnh trao đổi với nhau email của Nhà văn Hồ Anh Thái. Nhập tâm địa chỉ mạng của người lạ, về Đồng Nai ông ra tiệm Internetgần nhà nghĩ và viết ngay một truyện ngắn vào ô viết thư gửi cho nhà văn.
Về chuyện này Hồ Anh Thái kể: “Ngày nọ trong hộp thư điện tử của tôi xuất hiện một bức thư lạ, ở ô trống để viết thư chỉ là một truyện ngắn được dán thẳng vào, không kèm theo một lời giới thiệu hoặc nhắn gửi. Tôi đọc thử mấy dòng. Cái tên tác giả Nguyễn Trí thì còn lạ lắm, nhưng một trang đầu đã chứng tỏ người viết có chữ và biết dùng chữ, có chuyện và biết kể chuyện…”

Truyện ngắn Hồ Anh Thái nói ở đây chính là truyệnNín lặng khóc được ông biên tập, gửi Tuổi trẻ cuối tuần, trở thành truyện ngắn đầu tiên in báo của Nguyễn Trí. Từ đó đến nay năm năm trôi qua, Nguyễn Trí đã có hơn 100 truyện ngắn in báo. Xuất bản 3 tập truyện ngắn, một tiểu thuyết. Tất cả đều được chắt ra từ cuộc đời ông, một cuộc đời đầy máu và nước mắt. Tôi nói điều này không ngoa. Nguyễn Trí có năm đứa con. Đứa con trai đầu với người vợ trước, bị chết vì tai nạn giao thông như đã kể. Đứa con gái lớn của người vợ sau, năm 20 tuổi bị người ta giết chết. Còn lại hai trai một gái thì đứa trai thứ ba sa vào nghiện hút, con dâu bỏ đi để hai cháu lại cho ông bà nội nuôi. Thế là khi sắp sửa về giàvợ chồng ông vẫn phải cặm cụi bán mặt cho đất, bán lưng cho trời làm lụng nuôi con, nuôi mình, nuôi cháu. Vì những sự nuôi ấy mà bản thân ông đã hơn một lần chết hụt ở các bãi vàng, ở các cung đường lầy bụi. Để sống được chứ chưa nói để viết, để trở thành nhà văn, biết bao lần ông đã phải “Rũ bùn đứng dậy…”(**). Đọc“Nhà văn Việt Nam hiện đại” do Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, đố ai tìm thấy một nhà văn nào có tiểu sử “hoành tráng” như ông. Này nhé: “…sinh năm 1956 tại Bình Định…Từng qua các nghề: Đào đãi vàng, đá quý, khai thác trầm hương, chặt củi đốt than, nấu đường lậu, cưa xẻ gỗ, phu hồ… làm đồ tể. Sau đó vào TP HCM chạy xe ôm ở bến Bạch Đằng vài năm. Về Đồng Nai làm công nhân trong các khu công nghiệp…”. Nghĩa là toàn những nghề dành cho kẻ mạt, không có trường lớp nào dạy, buổi sáng nhập môn buổi chiều đã rành việc, người làm chỉ cần sức lực và một chút liều lĩnh là xong. 

Điều đáng ngạc nhiên, dù cực khổ vậy nhưng từ đáy sâu tâm hồn ông không hề oán thán cuộc đời, tác phẩm viết ra cái nào cũng “Đẹp và Thiện”. Đối nhân xử thế thì luôn giữ được sự bao dung, dám làm dám chịu của một chính nhân quân tử. Ngày tòa xử vụ con gái bị giết, ông đã đứng ra xin tòa mở lượng khoan hồng cho kẻ thủ ác.Có lần nhặt được ví tiền của ai đó đánh rơi, ông liền công bố lên Facebook để chủ nhân cái ví biết. Lại có lần vợ ông bắt được mấy món đồ nữ trang bằng vàng, người mất nghe tin, đến xin lại. Xác định đúng khổ chủ, ông trả lại ngay. Từng ăn trên vàng, ngủ trên vàng, dẫm đạp lên vàng mà nhiều khi rời bãi, trong túi không có một đồng đi xe, chân lý ông ngộ ra là Cái gì không phải của mình thì mình không có quyền giữ!Chân lý này toát ra từ Bãi vàng, đá quý, trầm hương,từ Thiên đường ảo vọng, từ hơn 100 truyện ngắn ông in báo.

Nguyễn Trí sẽ còn viết nhiều, nhưng với những gì đã công bố, truyện ngắn rõ ràng là một thế mạnh của ông. Mạnh ở đời sống, ở cốt truyện, và nhất là ở ngôn ngữ thể hiện. Ngôn ngữ trong các truyện ngắn của Nguyễn Trí là một thứ ngôn ngữ bụi,được sử dụng một cách tự nhiên, vừa đủ,rất hợp với các nội dung cần chuyển tải. Chúng ta thử hình dung cũng những cốt truyện ấy, nếu tác giả thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ “xa lông”, liệu chúng có dậy mùi được không ? Chắc chắn không. Lúc ấy thay vì đọc ông, người ta sẽ đọc các trang báo, nhất là báo về pháp luật và an ninh. Nhưng người đọc đọc Nguyễn Trí, vì truyện của ông “…có vô số thông tin và ông đã biến những thông tin đó thành thế giới tưởng tượng của riêng mình để truyện nào cũng có nhân vật rõ tới sờ thấy được và tình huống truyện rất kỳ lạ và cái quan trọng là cảm xúc nhân văn tràn đầy ở người viết biến những cái thông thường thành cảm xúc chung lớn lao…”
Ở người làm nghề văn, đây là một năng lực trời cho. Nếu để mất nó, bất cứ người viếtnào cũng sẽ lẫn trong muôn vàn khuôn mặt văn chương khác.