Nhiều đêm, Lương Vĩnh đứng khoanh tay trước ngực, tựa thân cây, cặp mắt ngước nhìn  ban công chờ đợi. Một đêm, phố xá đã tắt đèn, anh vẫn đứng tựa gốc cây , mắt  chằm chằm nhìn lên ban công kia. Anh đứng như kẻ vụng trộm. Anh đã bị lọt vào tầm theo dõi của công an đường phố. Quá nửa đêm, anh vẫn đứng thế. Mấy anh công an tới hỏi anh giấy tờ tùy thân. Trên người anh không có gì, ngoài tập thơ Maiacôxki. Anh được đưa về đồn. Bị hỏi, anh không trả lời mà như người mộng du. Anh lẩm nhẩm đọc câu thơ “Nửa đêm trên đường phố, chỉ có nhà thơ và những tên ăn trộm...”. Mấy anh công an với nghiệp vụ của mình, biết người này không phải là kẻ trộm, mà có thể là kẻ tâm thần, nên cho anh ra về. Lang thang ra đường phố, anh lại lẩm nhẩm câu thơ “Hoa hồng khóc, ngọc lệ giọt sương...”


             
                  
 LƯƠNG VĨNH THẢNG THỐT THƠ

VŨ TỪ TRANG
                             
               Người đàn ông có tuổi, vóc dáng gày guộc, vẻ mặt đau khổ,  ăn vận áo quần cũ càng, nói năng lí nhi, duy chỉ có cặp mắt sáng lên khi nói về thơ, ấy là anh Lương Vĩnh.
               Quê anh ở vựa lúa Thái Bình. Sinh trưởng và lớn lên trong gia đình khá giả. Chân dung ông nội, cụ nội của anh đều là những người mặc áo chùng gấm đoạn, đầu đội mũ cánh chuồn. Đấy là những người từng có vai vế quyền hành , ăn nói có gang có thép ở vùng quê lúa . Nhưng có lẽ đến đời cha mẹ anh, thì có phần kém  rồi. Vốn liếng gia sản dần cạn kiệt, chỉ đủ tiền  cho con  ăn học ở trường huyện. Lớn lên, hai anh em như chán cái gia phong vang bóng một thời của nhà mình, bỏ quê, dắt nhau lên thủ đô lập nghiệp.
             Tiếng là con cháu nhà giàu  một thời của làng quê, nhưng khi lên Hà Nội, hai anh em như bị nhòe lẫn trong cuộc sống đô thành. Tuy nhiên, hai anh em vẫn giữ được ngọn lửa lãng mạn trong tim, vẫn ôm ấp lập danh với nghẹ thuật. Người anh theo con đường mỹ thuật, người em thì theo đuổi mộng văn chương. Học hành ở quê thì được xếp danh cậu ấm cậu tú, nhưng chữ nghĩa và nghề nghiệp thì chưa đâu vào đâu. Không quản ngại, anh có thể làm bất cứ công việc lao động chân tay, miễn đủ tiền sinh nhai để nuôi mộng chữ nghĩa. Những trang thơ trang tiểu thuyết trong nước, ngoài nước, thời cổ điển thời hiện đại, thưở ở quê từng đọc ngấu nghiến, đã thấm đẫm vào anh, chắp cánh mộng mơ cho anh.

Ngày đi làm thuê cho một công xưởng, đêm đêm anh lại thả mộng mơ với bước chân phiêu lãng dọc  phố phường. Đấy là giai đoạn đất nước thanh  bình, xã hội  tươi đẹp, thiên nhiên dường tột cùng trong trẻo. Đã nhiều đêm anh lang thang ngắm phố phường với vẻ đẹp kiêu sa, quên thời gian, quên cả chiếc bụng mình đang đói lép kẹp. Cứ đi tha thẩn như mê hoặc, rồi anh đem lòng si mê cô gái mà tình cờ anh nhìn thấy trên ban công ngôi biệt thự cổ gần phố Quan Thánh. Trong con mắt chàng thi sỹ tỉnh lúa kia,  nàng là một thiên thần kiều diễm. Một tối, vô tình nàng ra  tưới nước  chậu lan ngoài ban công. Chậu lan  đang đơm hoa trắng muốt. Không biết bốn con mắt đã chạm phải nhau chưa?  Còn chàng thi sỹ sy tình cứ tưởng tượng nàng ra tưới hoa vì cốt để nhìn mình. Chàng mơ tưởng tới mối  tình Rômêô và Julyét, mối tình mơ mộng, đắm say, bất tử trong sách vở một thời. Ấy rồi sy mê, tối nào chàng cũng nghiện đi tới phố ấy, tới gốc cây trước ngôi nhà ấy, hòng mong nàng ra ban công tưới hoa để  được ngắm nhìn dung nhan nàng. Nhiều đêm, chàng đứng khoanh tay trước ngực, tựa thân cây, cặp mắt ngước nhìn  ban công chờ đợi. Một đêm, phố xá đã tắt đèn, anh vẫn đứng tựa gốc cây , mắt  chằm chằm nhìn lên ban công kia. Anh đứng như kẻ vụng trộm. Anh đã bị lọt vào tầm theo dõi của công an đường phố. Quá nửa đêm, anh vẫn đứng thế. Mấy anh công an tới hỏi anh giấy tờ tùy thân. Trên người anh không có gì, ngoài tập thơ Maiacôxki. Anh được đưa về đồn. Bị hỏi, anh không trả lời mà như người mộng du. Anh lẩm nhẩm đọc câu thơ “Nửa đêm trên đường phố, chỉ có nhà thơ và những tên ăn trộm...”. Mấy anh công an với nghiệp vụ của mình, biết người này không phải là kẻ trộm, mà có thể là kẻ tâm thần, nên cho anh ra về. Lang thang ra đường phố, anh lại lẩm nhẩm câu thơ “Hoa hồng khóc, ngọc lệ giọt sương...”
               Nhưng rồi tính mộng mơ của anh đã phải trả giá. Đấy là khi anh  cúi xuống toan hôn đôi búp tay ngọc ngà của người thiếu phụ  cùng số nhà  anh thuê trọ. Chả là độ ấy, nước máy sinh hoạt quý hiếm như nước thánh. Cái vòi nước chung cho các hộ trong ngôi nhà ít khi có nước chảy. Họa hoằn lắm, nửa đêm cái vòi nước mới ti tỉ chảy. Những chiếc xô, chậu, thùng...của các chủ nhân  xếp hàng rồng rắn bên vòi nước. Rồi cuộc tranh giành  phần mình được hứng nước trước đã xảy ra tại chiếc vòi nước. Chiếc xô của anh luôn bị những chiếc xô , chậu khác gạt ra tranh chỗ. Mãi gần sáng, chiếc xô của anh mới được phần hứng nước ở cái vòi nước khiêm nhường kia. Anh định đặt chiếc xô mình vào vị trí, thì linh tính thấy một ánh mắt sau lưng  nhìn anh. Quay lại, anh nhận ra khuôn mặt người con gái đoan trang ở sát vách nhà. Anh nhấc chiếc xô của mình ra, đặt chiếc xô của người con gái kia vào hứng nước trước. Người con gái cảm ơn anh bằng ánh mắt đăm đắm lặng im. Đến đêm thứ bảy  chờ hứng nước, là cái đêm định mệnh của anh. Vẫn như mấy lần trước, anh lại nhường chỗ cho cô gái kia hứng nước trước. Cô gái hứng đầy xô nước  rồi lặng lẽ rót sang tràn trề chiếc xô nhựa nhỏ bé của anh, nói lý nhí “ Anh tốt với em quá !” Chả hiểu máu thi sỹ của anh nổi lên thế nào, anh xúc động ngây người, rôi vội cúi xuống toan hôn búp tay ngà ngọc người con gái kia. Anh chưa kịp hít hà hơi hướng đôi bàn tay ấy, thì một cú đá ngoạn mục tung anh lên cao, rồi anh ngã vật xuống rãnh nước bên cạnh. Máu hiệp sỹ  trong anh trổi dậy. Như  để bảo vệ người con gái kia, anh cố vùng lên, lao tới đấm túi bụi vào mặt người đàn ông đang lôi sềnh sệch người con gái và xô nước về nhà. Đương nhiên tấm thân học trò của anh bị trận đòn nhừ tử. Anh nào biết người vừa cho anh nếm  trận đòn, đó chính là người chồng cô gái vừa ở chiến trường về phép. Trận ẩu đả ầm ĩ,  mấy người dân phòng  chạy tới, dong anh về trụ sở phường. Đấy là thời kỳ chiến tranh căng thẳng nhất, chính sách hậu phương bảo vệ cho người ra trận được coi trọng, anh bị khép tội xâm phạm hạnh phúc gia đình người chiến sỹ ngoài tiền phương. Thế rồi anh được đưa vào trại cải tạo không cần một lời phân trần giải thích. Chàng thi sỹ có máu hiệp sỹ  kia lại nghĩ, gian nan là thử thách cho cho tâm hồn minh, để những câu thơ  vụt hiện. Rồi anh trở thành trại viên tích cực của trại giam cải tạo từ độ ấy.

                Ngày mãn hạn, ra trại, anh trở thành người bơ vơ. Người anh trai  khi đó đang là nhà điêu khắc có tiếng với cuộc sống vương giả. Không muốn phiền lụy, anh tự đi tìm công việc mưu sinh.  Rồi anh  làm   thợ móc cống, thợ đổ thùng vệ sinh, thợ kéo phông màn nhà hát...Anh còn trở thành thợ đánh véc ni giỏi, cũng nhờ học nghề trong quá trình ở trại cải tạo. Anh từng theo con thuyền nan dọc sông Hồng, ngược dòng sông Lô, để làm thợ mộc, thợ đánh véc ni cho các chòm xóm ven  sông. Có lẽ đấy là thời thơ thới nhất của đời anh. Những mảnh đất, nhưng kiếp người, những tấm lòng chất phác mà anh gặp gỡ, đã cho anh niềm tin sâu thẳm vào cuộc sống, kéo anh khỏi cõi sống viển vông sách vở một thời.
               Sau mỗi ngày lao động cật lực, đêm về, anh lại thả hồn mình với những câu thơ  chênh vênh. Rồi anh quay trở về thủ đô, gặp gỡ những người bạn thi sỹ tự do như mình. Họ đọc thơ cho nhau nghe trong quán rượu nghèo dưới gầm cầu, hoặc quán chè chén vỉa hè, có khi ở ngay bên chân cột đèn đường phố. Có lẽ, cái danh hiệu  nhóm- thơ- cột- đèn được anh em văn nghệ phong cho anh bắt nguồn từ đó?. Đấy là nhưng thi sỹ tài hoa, như Tuân Nguyễn, Chu Hoạch, Phan Đan... Đôi khi, thấy cả Lưu Quang Vũ bìu ríu cùng nhóm ấy. Thơ của họ khi ấy rất đắm say, nhưng hình như xa lạ, lạc lõng với không khí thơ đang sục sôi trước cuộc chiến tranh cả nước lên đường. Những  câu  thơ của họ, như “ Chầm chậm đi vào tầm mắt của tôi, một người con gái, bên trái đẫm vàng, đấy là nắng hoang mang..”, hoặc “ Thon thót sợ gió hắt đi, em có thấy giọt mưa còn lại...”, hoặc “ Thương hoa hồng khóc một mình...”. Trước cuộc chiến tranh một mất một còn, thì đương nhiên những câu thơ kia có phần xa xỉ, lạc lõng, không thiết thực là phải. Anh vẫn là ngươi u u mê mê. Có lúc anh lại kêu lên là không ai hiểu mình, Thơ đã tàn phá đời anh !

Rồi cũng tới tuổi không còn mơ mộng hão. Nhìn quanh, bạn bè đã yên bề gia thất. Anh mới ngộ ra mình trắng tay.  liền quay về quê Thái Bình kiếm người vợ. Ở thành phố, anh là người không xếp hạng. Nhưng về quê, với  hào quang dĩ vãng của dòng tộc, anh vẫn lấy được người vợ trẻ hiền thục. Người vợ trẻ khăn gói theo chồng  lên thành phố, không tiền bạc, không kiến thức, họ xoay ra bán bánh mỳ vỉa hè. Rồi anh học được nghề làm ba-tê. Thế rồi đêm đêm họ trần lưng làm ba-tê để sớm mai bán  bánh mỳ ở  góc phố.
               Tôi đã mấy lần đến thăm chỗ trú ngụ của gia đình anh. Đấy là gian nhà  lợp tôn nóng hầm hập,  cơi nới  trên sân thượng của gian nhà tắm hôi hám. Giữa không gian đặc quánh mùi ba-tê, mùi tương ớt, mùi bánh mỳ chua chưa bán hết, tôi không hình dung ra không gian thi ca của anh tồn tại chỗ nào. Rót mời tôi chén nước chè nhạt, anh  vội đọc thơ cho tôi nghe. Vẫn những câu thơ về hoa hồng khóc, về bông huệ trắng nở thơm một mình... Tôi thêm thấy tâm hồn thi sỹ trong anh ngày càng phiêu diêu.
              Anh say mê thơ như vậy, nhưng trên  sách báo,   chưa  thấy tên anh xuất hiện. Nhiều người không biết tên anh, hoặc biết thì lại nhầm lẫn với tên của nhạc sỹ Lương Vĩnh với ca khúc nổi tiếng “ Thành phố hoa phượng đỏ”. Chỉ có một nhóm anh em làm vắn chương ở Hà Nội là biết  anh, thông cảm cho hoàn cảnh của anh. Rồi họ xúm lại, gom tiền in  cho  anh  tập  thơ  “ Sau mưa ” . Đấy là năm 1994, tập thơ đầu tay của người đàn ông có  tuổi. Tập thơ mỏng mảnh,  Nhà xuất bản Văn Học cấp giấy phép, tôi đọc với sự trân trọng  tâm hồn người viết. Bài thơ “ Hoa hồng trắng”, tặng nhạc sỹ Dương Thụ, có câu “ Buồn bao nhiêu tay cầm bông hồng trắng,  ở giữa đời không biết trao ai ”. Tôi nhận thấy vẫn một nét riêng nào đó của con người anh.

               Một buổi trưa cuối hè năm 2008, tôi gặp lại anh Lương Vĩnh ở nhà anh  Tạ Vũ. Cái buổi gặp gỡ chúc mừng chị Điều vợ anh Tạ Vũ vừa in tập thơ, thật ồn ào mà thân mật. Anh Lương Vĩnh khoe với tôi là anh cũng sắp có tập thơ mới. Chỉ dăm bảy hôm sau, anh đạp xe đến nhà tôi tặng sách. Cầm tập thơ mới của anh, tôi cảm động bởi lòng say mê thơ của anh không nguội lạnh. Thì ra, thơ không dễ bỏ con người. Phải nói đúng hơn, là người không bỏ thơ. Thơ vẫn chung thủy với con người. Thơ  không chống  đói cho con người, nhưng thơ có thể dắt con người vượt qua cơn đói. Không hiểu sao, khi đọc tập thơ mới của anh, tập “ Thảng thốt thu ”, lại cho tôi ý nghĩ miên man này. Nói đúng ra, anh Lương Vĩnh chưa được hưởng vinh quang gì với thơ . Thơ đã có khi đày đọa anh. Nhưng tôi biết, thơ đã cho anh niềm tin để sống, để vượt qua những kham khổ đời thường. Thơ đã cho anh niềm tri kỷ với người anh yêu thương, với bạn bè thân thiết của anh. Trong tập, có những bài thơ anh viết tặng nhà thơ Trúc Thông, tặng nhạc sỹ Dương Thụ, tặng nghệ sỹ Trọng Khôi... Đó là những cảm xúc trong trẻo  đáng yêu. Tôi nghĩ, nếu không có thơ, chắc gì anh đã biểu cảm được tình cảm của mình với những người bạn đáng yêu  như thế ?!

                 Có người bạn hỏi anh, rằng đời sống thường nhật của anh khổ sở thế, nhom nhem thế, sao thơ anh toàn nói về những điều cao xa, tốt đẹp? Có phải đó là chủ trương sáng tạo nghệ thuật của anh chăng? Tôi nghĩ giản dị, vì cuộc sống vốn khắc khổ rồi, nếu anh viết thêm về sự khốn khó ấy, thì liệu có ích gì? Điều tốt hơn, là biết vượt qua cái khốn khó ấy, để hướng về những đièu cao đẹp, để sống thanh thản nhẹ nhàng. Có lẽ đấy là tâm niệm giản dị của anh  về  kiếp người chăng ?
                 Niềm vui có tập thơ mới ra đời chưa lan tỏa hết, anh lại điện thoại chào tôi để  lên núi Chè bên Bắc Ninh. Ở đấy, có ngôi nhà vườn của nhạc sỹ Dương Thụ rợp bóng cây. Người nhạc sỹ, bạn thân của anh, hiểu anh, ưu ái dành cho anh thời gian dài lên sống yên bình, để viết tiếp những vần thơ đắm say và mộng mơ.