Tôi là người kỳ quặc hoặc vô trách nhiệm, tự nhiên lại buồn
vì một con khướu. Cái con khướu kia chính tay tôi muốn thả nó ra cơ mà? Tôi
cũng lờ mờ nhận ra mối nguy hiểm khi quyết định thả nó. Nhưng tôi vẫn cứ thả và
để nó chết đâu đó. Ừ, vô trách nhiệm thật, nếu không muốn nói nhẫn tâm. Thực
lòng, tôi chỉ thấy buồn từ khi không nghe được tiếng hót của nó nữa, dù vẫn biết
tiếng hót kia bắt nguồn từ sự tù đày. Và khi tiếng hót ấy im bặt mỗi buổi sáng,
tôi lại giật mình nghĩ đến chính tôi. Con khướu tội nghiệp kia, bị bầu trời từ
chối, hay chính nó từ chối bầu trời? Đương nhiên trong chuyện này tôi – người
nhốt nó là nguyên nhân. Cũng có thể bản năng hoang dã vẫn còn sâu thẳm trong
nó. Bằng chứng là cái “phản xạ” quay về lồng cũ để kiếm tìm thức ăn. Nhưng cái
bản năng hoang dã lại không mách bảo nó rằng, đừng về chỗ ấy – đó là tù đày.
CON KHƯỚU BƠ VƠ ĐÔ THỊ
A SÁNG
Một lần vì sửa nhà, tôi quyết định thả con chim khướu đã
nuôi hơn một năm. Ban đầu nó sợ hãi nhảy lung tung vì không biết chủ nhân của
nó đang làm gì. Nhưng rồi nó cũng nhìn thấy cái cửa lồng mở toang – nó bay ra
ngoài. Cu cậu có vẻ sung sướng vì được tự do, vù một cái biến đâu mất. Tôi cất
cái lồng lên mái nhà, bỏ tất cả thức ăn của nó vào thùng rác và nghĩ mình vừa
làm theo lời Phật dạy – phóng sinh để được thanh thản.
Không ngờ, mờ sáng hôm sau, tôi đã nghe tiếng hót quen thuộc
của nó. Thì ra cu cậu quay về, đậu lên chính cái lồng đã tù đày nó hơn một năm
nay và ngửa cổ hót. Sau khúc dạo theo kiểu phản xạ, cu cậu bắt đầu chui vào lồng,
tìm kiếm thức ăn. Chẳng có gì lạ, con chim này đã mất hết bản năng hoang dã, nó
không biết kiếm ăn bằng cách nào. Hay đúng hơn ở cái thành phố khói bụi này, một
con chim bé nhỏ thật sự chẳng biết sống ở đâu nếu không phải là một cái lồng.
Không còn cách nào khác, tôi phải nuôi, nó đâu còn là một
con khướu bình thường nữa. Sau ngần ấy thời gian, nó đã trở thành “chim thành
phố”, vì thế phải sống trong lồng, ăn thức ăn công nghiệp, uống nước máy và hót
những câu vô nghĩa…
Dần dà, tôi cũng chẳng buồn khóa cái cửa lồng kia lại nữa.
Nó được phép tự do. Nếu thích có thể ra ngoài, chơi bời thoải mái, đói sẽ mò về,
đương nhiên thế. Bỗng một buổi sáng tôi không còn nghe tiếng hót của nó nữa. Cứ
nghĩ hôm qua mải chơi, cu cậu về không kịp. Nhưng hai hôm, ba hôm, rồi bốn hôm…
vẫn im bặt tiếng hót quen thuộc. Tôi đoán nó đã gặp tai nạn, hay một cái lồng
nào trống không đầy thức ăn nên chui vào sống ở đó. Với một con chim nửa thật,
nửa giả này chắc chắn nó không thể phân biệt đâu là nhà của chủ nhân. Cũng chẳng
sao, cứ coi như nó đã được tự do. Chỉ hy vọng thế thôi, thực lòng sinh mạng bé
nhỏ này khó sống sót, chỉ cần ra khỏi lồng, tất cả đều là mối hiểm nguy, mất bản
năng cũng có nghĩa mất hết sự tự vệ. Có thể nó đã chết, mà thực chất nó đã chết
từ lâu!
Tôi là người kỳ quặc hoặc vô trách nhiệm, tự nhiên lại buồn
vì một con khướu. Cái con khướu kia chính tay tôi muốn thả nó ra cơ mà? Tôi
cũng lờ mờ nhận ra mối nguy hiểm khi quyết định thả nó. Nhưng tôi vẫn cứ thả và
để nó chết đâu đó. Ừ, vô trách nhiệm thật, nếu không muốn nói nhẫn tâm. Thực
lòng, tôi chỉ thấy buồn từ khi không nghe được tiếng hót của nó nữa, dù vẫn biết
tiếng hót kia bắt nguồn từ sự tù đày. Và khi tiếng hót ấy im bặt mỗi buổi sáng,
tôi lại giật mình nghĩ đến chính tôi. Con khướu tội nghiệp kia, bị bầu trời từ
chối, hay chính nó từ chối bầu trời? Đương nhiên trong chuyện này tôi – người
nhốt nó là nguyên nhân. Cũng có thể bản năng hoang dã vẫn còn sâu thẳm trong
nó. Bằng chứng là cái “phản xạ” quay về lồng cũ để kiếm tìm thức ăn. Nhưng cái
bản năng hoang dã lại không mách bảo nó rằng, đừng về chỗ ấy – đó là tù đày. Nó
đã không thể nhận ra cái lồng là tù đày vì bị nhốt quá lâu, cho dù chỉ cần mở cửa
lập tức nó bay ra ngoài – đó cũng là một bản năng. Và chỉ khi cái đói hành hạ
nó mới quay về - lần này rõ ràng cũng là bản năng. Nhưng sâu xa hơn, cái bản
năng phải mách bảo nó rằng, bầu trời kia mới là quê hương của nó. Nơi đó mới
chính là cuộc sống của nó.
Bầu trời cao vợi, rừng cây xanh rì, dòng suối mát rượi… tất
cả những thứ đó không còn hấp dẫn với con khướu kia khi chính cái “bản năng” được
hình thành trong tù đày vẫy gọi. Nó chỉ còn biết: cái lồng, thức ăn, nước uống,
hót vô nghĩa. Ngoài ra không còn gì. Nó chỉ còn thế!
Thỉnh thoảng về quê, tôi vẫn đi ăn sáng ngoài chợ. Ngày bé
tôi vẫn thường ăn sáng ở chợ này. Đương nhiên những hàng quà sáng xưa kia không
còn nữa. Nhiều người thấy tôi ngồi ăn sáng, họ tò mò không biết đó là ai. Và bắt
đầu họ trò chuyện bằng tiếng Tày, thằng này ở đâu đến đây thế nhỉ? Nó không phải
người vùng này. Hay nó là thợ xây dưới xuôi lên? Cũng có thể nó mới đến huyện
công tác… Cứ thế họ trao đổi với nhau bằng thứ ngôn ngữ của chính tôi. Họ không
biết tôi nghe rất rõ, biết tất cả. Tôi vẫn vờ im lặng. Im lặng đấy nhưng sâu thẳm
trong tôi như bị xé ra đau đớn.
Ừ nhỉ, sau gần hai mươi năm xa cái chợ huyện này. Bây giờ
tôi là ai!? Hình thức tôi thay đổi quá nhiều, ngay cả tư duy của tôi rất khác –
đương nhiên thế. Chỉ một thứ duy nhất vẫn còn: tiếng Tày thân yêu của tôi! Và
bây giờ chính cái ngôn ngữ thân yêu kia lại vờ như không biết tôi là ai! Tôi rất
muốn vỗ ngực: tao đây, tao là người ở vùng này, sinh ra từ đây, chúng mày còn đến
đây sau tao rất nhiều… tôi rất muốn hét lên như thế. Nhưng cũng không hiểu sao
tôi lại im lặng. Thực lòng tôi không đủ sức để hét lên như thế. Tại sao thế?
Tôi không biết! Bỗng nhiên tôi thấy mình như một người khách lạ. Giờ đây, còn rất
ít người biết tôi, trừ những người họ hàng thân thích.
Quả thực, tôi sẽ không biết làm gì nếu bây giờ để tôi sống ở
nơi đã sinh ra tôi. Có lần một nhà thơ đã tặng tôi một câu thơ: “Những kẻ nhập
đô thất bại! Xa quê hương không đủ sức quay về…”. Và bây giờ khi đứng ở chính mảnh
đất sinh ra mình, câu thơ kia vang lên còn hơn cả một sự mỉa mai đau đớn. Với
câu thơ đó, tôi không phải một kẻ thất bại ở đô thành, cũng không buộc phải xa
quê hương, nhưng sự thật tôi không dám quay về. Quê hương từ chối tôi, hay
chính tôi từ chối quê hương!? Thực sự tôi không biết. Tôi chỉ thấy trống rỗng mỗi
khi trở lại mảnh đất đã sinh ra tôi. Cái trống rỗng mơ hồ đó, cũng y như mỗi
đêm tôi bắt đầu đi ngủ ở thành phố. Mỗi lúc buồn bã tôi chỉ muốn về quê, nhưng
chỉ vài ngày ở quê tôi lại thấy trống rỗng vô cùng. Tôi lại xuống thành phố!
Hay thật! Tôi là ai? Chịu, tôi không biết. Đôi lúc tôi tự hỏi, cuộc sống này có
thực hay không? Rất có thể cái thể xác cụ thể của tôi là giả, suy nghĩ của tôi
cũng giả nốt. Nếu là thật tại sao tôi không thể trở về quê hương? Chẳng ai bắt
tôi phải sống ở cái thành phố này. Cũng chẳng ai buộc tôi phải rời xa cố hương.
Và cũng chẳng ai cấm đoán tôi quay về. Chỉ có thể lý giải đơn giản rằng: tôi đã
không còn là chính tôi nữa. Cái hình hài vật chất bên ngoài của tôi đã biến đổi,
đau đớn hơn, ngay cả sâu thẳm tâm hồn tôi cũng méo mó. Vì thế tôi chơi vơi và
tù đày chính bản thân mình. Chỉ một thứ duy nhất là thật – tiếng Tày thân yêu của
tôi. Chỉ khi nó vang lên tôi mới nhận ra chính mình, biết rõ thân xác và tâm hồn
mình ở đâu. Còn tất cả bây giờ: ăn, nói, cười, khóc… là giả - tất cả đều là giả.
Tôi nghĩ thế!
Và cũng chính cái ngày im bặt tiếng con chim khướu tội nghiệp
kia tôi mới thấy được cái nguyên nhân sâu xa của sự tù đày. Với con khướu, cái lồng
là biểu tượng. Còn với tôi, chẳng có gì ngoài chính tâm hồn tôi. Ở thành phố, nếu
trong giấc mơ, không còn quê hương nữa – tôi sẽ chết! Nhưng với quê hương, tôi
đã như một người khách lạ! Tôi là ai? Tôi đang bị tù đày? Ở chừng mực nào đó,
tôi còn hơn cả bị tù đày. Nhưng phải sau hai mươi năm xa cố hương tôi mới nhận
ra sự thật đó. Còn bây giờ, tất cả xung quanh tôi, cả thân xác, lẫn tâm hồn tôi
đều là giả. Rất có thể như thế!
Phùng Gia Lộc người nhỏ thó, ốm yếu, gầy gò; nước da xanh xám, thở lúc nào cũng nặng nhọc, khò khè suốt ngày vì bị hen suyễn nặng… Thế nhưng, bên trong con người có bề ngoài mảnh khảnh ốm o ấy lại luôn là một tấm lòng nồng hậu, một tinh thần sục sôi chống lại cái ác, không chịu được sự bất công, ngang ngược của bọn quan lại, cường hào mới… Giai đoạn quyết liệt nhất, sau khi đăng “Cái đêm hôm ấy đêm gì”, Phùng Gia Lộc phải trốn ra Hà Nội… Tôi vẫn nhớ như in cái cảnh về quê của Phùng Gia Lộc sau những ngày trốn tránh. Vợ anh chạy từ đâu về không biết, mặt mày hốt hoảng, tất tả, tiêu điều không khác gì chị Dậu trong Tắt đèn ngày trước. Mấy đứa con ngơ ngác, lạ lẫm trước đoàn khách xe pháo, hàng hóa lềnh kềnh đầy một khoảng sân đất trước nhà. Nhà anh xiêu vẹo hơn nhà chị Dậu…
Khi xe Vũ xuống dốc cầu qua địa phận xã Ngọc Châu thì phải dừng lại, vì chiếc xe tải phía trước thắng gấp để tránh hai phụ nữ đèo nhau bất chợt vượt qua mặt vào mép đường. Cũng vừa lúc đó phía sau xe Vũ có một chiếc xe tải lớn chở than của một công ty ở thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh) do tài xế Nguyễn Công Thành lái, chạy với tốc độ lớn xuống dốc cầu, không kịp thắng đã lao đâm vào phía trái đuôi xe của Vũ. Bị tác động bởi một lực quá lớn, vợ chồng Doãn Châu ngồi sau lái xe ngã bổ vào thùng xe, còn vợ chồng Quỳnh - Vũ và con trai Quỳnh Thơ ngồi bên phải bị hất tung lên khỏi xe rơi xuống mặt đường.
Tôi rất ngạc nhiên khi tôi vừa đưa mấy bài viết lên trang, có kẻ đã nhắn vào điện thoại tôi: “Câm mồm đi thằng già!”. “Muốn ăn bánh ô tô không?”. Trên mạng xã hội, xuất hiện một số người xuyên tạc, thóa mạ, cho là tôi kích động chiến tranh rồi vu đòn chính trị. Kỳ lạ vậy …
Báo Dân Việt đưa tin: “Chiều 3.3, bà Nguyễn Phương Hằng, Phó Tổng giám đốc Công ty Du lịch Đại Nam , cho biết chính thức kiện ông Minh Diện vì cố tình xâm phạm đời sống riêng tư và bịa đặt nhằm làm nhục người khác. Ngoài ra, ông Minh Diện còn bị tố không có văn hóa và hủy hoại danh dự người khác không phải riêng với vợ chồng ông Huỳnh Uy Dũng - bà Nguyễn Phương Hằng ( ảnh bên ) mà kể cả một số cá nhân. Bà Nguyễn Phương Hằng cho biết: “Ông Minh Diện đã lôi kéo một số người nhằm phá hoại khu du lịch Đại Nam đang hoạt động. Tôi tin luật pháp nghiêm minh sẽ trừng trị thích đáng những kẻ chuyên đi phá hoại cuộc sống bình yên của người khác”. Được biết, ông Minh Diện đã có nhiều bài viết đăng trên blog B. liên quan đến một số cá nhân và gần đây ông Minh Diện có bài viết “Ân oán còn lâu”. Theo vợ ông Huỳnh Uy Dũng, bài viết toàn là những chuyện bịa đặt, hư cấu nhằm bôi nhọ, xúc phạm nhân phẩm và vu khống, phá hoại hạnh phúc gia đình vợ chồng ông đồng thời phá hoại hoạt động sản xuất kinh...
Ngụy biện hay lỗi ngụy biện (fallacy) trong thảo luận và trình bày ý kiến là một vấn đề nghiêm trọng, xảy ra trên bình diện đại số đông người Việt, không chỉ ở cả dân thường mà kể cả các vị có bằng cấp, học thức, hot bloggers hay như từ cách lý luận báo chí trong nước vốn là một núi ngụy biện. Ngụy biện (fallacy) nguy hiểm hơn, còn khiến người nhiễm phải nó có một lối tư duy suy nghĩ và phân tích vấn đề sai lệch. Người càng ít tranh luận thì càng khó có khả năng phát hiện lỗi ngụy biện trong tư duy của mình để chỉnh sửa. Đó là lý do ta thấy nhiều người ít nói, nhưng một khi mở miệng thì sẽ đuối lý và kết quả là chỉ biết chửi thề, xúc phạm, tấn công cá nhân người khác mà thôi. Chúng ta thử xem xét vài ngụy biện của những người tham gia buổi “đấu tố” mang tên “Chia sẻ trên mạng xã hội để làm gì?” trong chương trình “60 phút mở” của VTV đang gây xôn xao dư luận.